Minh Phương

Minh Phương

Kế hoạch tổ chức các Trại sáng tác của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tại các Nhà sáng tác trong tháng 3/2020

Trong tháng 3/2020, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức các Trại sáng tác tại các Nhà sáng tác trực thuộc trung tâm.

DANH SÁCH CÁC TRẠI DIỄN RA TRONG THÁNG 3 NĂM 2020

STT Tên Hội VHNT Địa điểm Khai mạc Bế mạc
TRẠI THƯỜNG NIÊN
1 Hội liên hệp Văn học nghệ thuật Nghệ An Vũng Tàu 02/03 16/03
2 Hội Văn học nghệ thuật Lạng Sơn Vũng Tàu 17/03 31/03
3 Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ngãi Đà Lạt 17/03 31/03
4 Hội Văn học nghệ thuật Bình Phước Đà Nẵng 02/03 16/03
5 Hội Văn học nghệ thuật Thái Nguyên Đà Nẵng 17/03 31/03
TRẠI CHUYÊN SÂU
1 Nhà văn Nguyễn Khắc Khuê Đà Lạt 02/03 21/03

I. Nhà sáng tác Đà Lạt:

1. DANH SÁCH VĂN NGHỆ SỸ ĐI SÁNG TÁC CHUYÊN SÂU
TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(02/03/2020 - 21/03/2020)
(Quyết định số 31 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 04 tháng 2 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Khắc Khuê Văn học Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT QUẢNG NGÃI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(17/3/2020 - 31/3/2020)
(Quyết định số:48/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 24 tháng 02 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Đăng Lâm Nam Nhiếp ảnh 1954 Kinh
2 Nguyễn Tấn Cư Nam Nhiếp ảnh 1976 Kinh
3 Phạm Thị Kim Chung Nữ Múa 1962 Kinh
4 Đinh Thiên Vương Nam VHDTTS 1962 H’rê
5 Phạm Minh Đát Nam VHDTTS 1967 H’rê
6 Phạm Văn Thu Nam Mỹ thuật 1965 Kinh
7 Trần Thi Im Nữ Mỹ thuật 1957 Kinh
8 Phan Bá Trình Nam Văn học 1965 Kinh
9 Trần Thị Thu Hà Nữ Văn học 1967 Kinh
10 Dương Thành Tuyên Nam Văn học 1963 Kinh
11 Trần Cao Duyên Nam Văn học 1954 Kinh
12 Nguyễn Xuân Bình Nam Âm nhạc 1959 Kinh
13 Nguyễn Sỹ Hùng Nam Âm nhạc 1969 Kinh
14 Trương Quang Tuấn Nam Âm nhạc 1948 Kinh
15 Nguyễn Đăng Vũ Nam VHDG 1960 Kinh

II. Nhà sáng tác Vũng Tàu:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI LIÊN HIỆP VĂN HỌC NGHỆ THUẬT NGHỆ AN
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(02/3/2020 - 16/3/2020)
(Quyết định số:40 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 14 tháng 02 năm 2020)
 
STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Đình Anh Nam Văn học (LLPB) 1952 Kinh
2 Nguyễn Thị Lợi Nữ Mỹ thuật 1951 Kinh
3 Nguyễn Bá Siếu Nam Mỹ thuật 1957 Kinh
4 Hồ Văn Các Nam Nhiếp ảnh 1957 Kinh
5 Phạm Quốc Đàn Nam Nhiếp ảnh 1964 Kinh
6 Lê Đức Lân Nam Văn học (LLPB) 1948 Kinh
7 Lý Thu Thảo Nữ Văn học 1983 Kinh
8 Phan Thị Thanh Bình Nữ Văn học 1971 Kinh
9 Nguyễn Hải Ninh Nam Sân khấu 1948 Kinh
10 Hữu Đào Nam Âm nhạc - Múa 1954 Kinh
11 Vũ Tiến Vinh Nam Âm nhạc - Múa 1959 Kinh
12 Hồ Thu Trang Nữ Âm nhạc - Múa 1983 Kinh
13 Lê Tùng Bách Nam Văn học (Thơ) 1949 Kinh
14 Đặng Phi Khanh Nam Văn học (Thơ) 1954 Kinh
15 Nguyễn Trường Thọ Nam Văn học (Thơ) 1957 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT LẠNG SƠN
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(17/3/2020 - 31/3/2020)
(Quyết định số:47 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 24 tháng 02 năm 2020)
 
STT Họ và tên              văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Hoàng Văn Páo Nam Văn học (LLPB) 1957 Tày
2 Vi Thị Quỳnh Ngọc Nữ Văn học (LLPB) 1978 Tày
3 Nguyễn Đức Nguyên Nam Văn học (Văn xuôi) 1962 Kinh
4 Nguyễn Thị Phượng Nữ Văn học (Văn xuôi) 1979 Kinh
5 Trần Vân Anh Nữ Văn học (Văn xuôi) 1982 Kinh
6 Tống Đức Sơn Nam Văn học (Văn xuôi) 1969 Kinh
7 Đặng Thị Phin Nữ Văn học (Thơ) 1958 Kinh
8 Nguyễn Anh Dũng Nam Văn học (Thơ) 1954 Kinh
9 Cao Thanh Sơn Nam Mỹ thuật 1969 Kinh
10 Chu Thị Thiều Nữ Mỹ thuật 1971 Nùng
11 Hoàng Thanh Luyện Nam Nhiếp ảnh 1949 Tày
12 Nguyễn Thanh Bình Nam Nhiếp ảnh 1955 Kinh
13 Trịnh Quốc Toản Nam Nhiếp ảnh 1971 Kinh
14 Nguyễn Văn Tân Nam Âm nhạc - Sân khấu 1976 Kinh
15 Hoàng Văn Thái Nam Âm nhạc - Sân khấu 1956 Kinh

III. Nhà sáng tác Đà Nẵng:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT BÌNH PHƯỚC
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ NẴNG
(02/3/2020 - 16/3/2020)
(Quyết định số:46/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 24 tháng 02 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Thanh Hoàng Nam Văn học 1963 Kinh
2 Hoàng Xuân Lãng Nam Văn học 1943 Kinh
3 Nguyễn Đức Vinh Nam Văn học 1947 Kinh
4 Nguyễn Thị Thùy Dung Nữ Văn học 1961 Kinh
5 Nguyễn Ngọc Dung Nữ Văn học 1968 Kinh
6 Lê Thị Cẩm Tuyết Nữ Văn học 1954 Kinh
7 Vũ Đình Lục Nam Mỹ thuật 1993 Kinh
8 Nguyễn Văn Luân Nam Âm nhạc 1957 Kinh
9 Đặng Văn Mau Nam

Sân khấu

(Đờn ca Tài tử)

1953 Kinh
10 Lê Thanh Phương Nam 1963 Kinh
11 Ngô Thị Hiền Nữ 1965 Kinh
12 Vũ Thị Sơn Trang Nữ 2002 Kinh
13 Trần Lê Hoàng Vũ Nam Nhiếp ảnh 1993 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT THÁI NGUYÊN
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ NẴNG
(17/3/2020 - 31/3/2020)
(Quyết định số:45/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 24 tháng 02 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Thị Kim Tình Nữ Văn học (văn xuôi) 1962 Kinh
2 Đỗ Trọng Dũng Nam Văn học 1952 Kinh
3 Ngọc Thị Thái Nữ Văn học 1958 Kinh
4 Ngô Gia Võ Nam Văn học (Thơ) 1959 Kinh
5 Nguyễn Kiến Thọ Nam Văn học (Thơ) 1968 Kinh
6 Trần Thị Việt Trung Nữ Văn học (LLPB) 1956 Kinh
7 Đỗ Thế Hùng Nam Mỹ thuật 1953 Kinh
8 Hoàng Báu Nam Mỹ thuật 1959 Tày
9 Đỗ Quốc Văn Nam Nhiếp ảnh 1967 Kinh
10 Phạm Thế Hoàng Nam Nhiếp ảnh 1954 Kinh
11 Trịnh Việt Hùng Nam Nhiếp ảnh 1957 Kinh
12 Quản Đức Thắng Nam Âm nhạc 1950 Kinh
13 Mông Đông Vũ Nam Sân khấu 1950 Tày
14 Trần Bình Dưỡng Nam Văn nghệ dân gian 1949 Sán Dìu
15 Nguyễn Thị Hồng Nữ Múa 1952 Kinh

Chùm thơ của Phan Thành Minh - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng

Thơ của Phan Thành Minh - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng – sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 5/2019.

CHIỀU ĐẠI LẢI
 
Ở đây sương trắng như mây trắng
Mây trắng nên không rõ mặt người
Không rõ nên chỉ là ảo ảnh
Khóc cười hay mếu cũng vậy thôi
 
Tru tréo chi thông chiều đã hết
Với vọng đau thêm một ngày trần
Đêm tối vẫn chừng nghe khát nắng
Bung buồn hạ tiếc một lần xuân
 
Chưa đủ dài tóc đã thấm sương
Về đâu những nẻo đường quạnh vắng
Thu úa vàng lỗi đâu tại nắng
Tự lòng mình lá muốn như hoa
 
Đã bao lần em lỗi hẹn ta
Mà ta ngỡ như đời này lỗi hẹn
Ta đâu có gì làm kỷ niệm
Một mùa đông đội cả đời người.
 
******
 
CHÁU VỀ TÌM LẠI LỜI RU
 
Về quê ngoại sao không tìm thấy ngoại
Đêm đỉnh trời sao đậu sao sa
Buồn nâng rượu chạm ly với núi
Đặc cả lòng đêm nỗi nhớ bà
 
Tìm đâu được tiếng cười thơ ấu
Dáo dác đường quê xanh mắt tre
Nghe gió đưa nôi chùm quả chín
Kéo lê chân lá ngỡ bà về
 
Hương ước như còn như đã tan
Lấp loáng tình quê lấp loáng làng
Ngọt nếp thơm chè chia khắp xóm
Tay bùn chân lấm trả gian nan
 
Chạnh thương lau lách vì xanh núi
Vừa phất cờ lên đã bạc đầu
Chưa chạm nước mà lòng đầy nước
Thuyền ơi thuyền với vọng chi cao
 
Về quê ngoại không tìm thấy ngoại
Bỗng dưng thương sông đã cạn dòng
Xin bụi đất sau còn gặp lại
Giữ dùm tôi nhé những bàn chân.

Chùm thơ của Phan Thành Minh - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng

Thơ của Phan Thành Minh - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng – sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 5/2019.

CHIỀU ĐẠI LẢI
 
Ở đây sương trắng như mây trắng
Mây trắng nên không rõ mặt người
Không rõ nên chỉ là ảo ảnh
Khóc cười hay mếu cũng vậy thôi
 
Tru tréo chi thông chiều đã hết
Với vọng đau thêm một ngày trần
Đêm tối vẫn chừng nghe khát nắng
Bung buồn hạ tiếc một lần xuân
 
Chưa đủ dài tóc đã thấm sương
Về đâu những nẻo đường quạnh vắng
Thu úa vàng lỗi đâu tại nắng
Tự lòng mình lá muốn như hoa
 
Đã bao lần em lỗi hẹn ta
Mà ta ngỡ như đời này lỗi hẹn
Ta đâu có gì làm kỷ niệm
Một mùa đông đội cả đời người.
 
******
 
CHÁU VỀ TÌM LẠI LỜI RU
 
Về quê ngoại sao không tìm thấy ngoại
Đêm đỉnh trời sao đậu sao sa
Buồn nâng rượu chạm ly với núi
Đặc cả lòng đêm nỗi nhớ bà
 
Tìm đâu được tiếng cười thơ ấu
Dáo dác đường quê xanh mắt tre
Nghe gió đưa nôi chùm quả chín
Kéo lê chân lá ngỡ bà về
 
Hương ước như còn như đã tan
Lấp loáng tình quê lấp loáng làng
Ngọt nếp thơm chè chia khắp xóm
Tay bùn chân lấm trả gian nan
 
Chạnh thương lau lách vì xanh núi
Vừa phất cờ lên đã bạc đầu
Chưa chạm nước mà lòng đầy nước
Thuyền ơi thuyền với vọng chi cao
 
Về quê ngoại không tìm thấy ngoại
Bỗng dưng thương sông đã cạn dòng
Xin bụi đất sau còn gặp lại
Giữ dùm tôi nhé những bàn chân.

CẢM XÚC LẠNG SƠN - Thơ của Nguyễn Thị Hồng Chinh - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng

Thơ của Nguyễn Thị Hồng Chinh - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng – sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 5/2019.

CẢM XÚC LẠNG SƠN
 
Trập trùng núi
chập chùng mây
đường lên Lạng Sơn cao chót vót
cao ngất như ngọn Mẫu Sơn
giăng giăng luỹ thành ải Bắc
che chắn yên bình nước non
con sông Kỳ Cùng chảy suốt bốn nghìn năm
tưới mượt miền quê Đông Bắc
cho cây hồi chuyên canh xanh vùng Văn Quan, Bình Gia, Văn Lãng…
cho mẹ cha cuộc sống mới, đổi đời…
Em theo anh về Lạng Sơn sớm nay
lần đầu trước động Tam Thanh.
lòng rung động
lần đầu tiên gặp Ải Chi Lăng
nghe tiếng người xưa vọng về từ muôn trước
nghe lễ hội Pác Mòng tháng giêng Đồng Đăng Xuân mượt
thấy vua Đinh du hành mừng non nước yên nguyên
nghe tiếng khèn môi ai thổi bên sông
gửi nhớ thương ai mà mai chiều réo rắt
như hòn Vọng Phu bồng con đứng dưới trời
ngàn năm trầm mặc
son sắt đợi chờ…
em tần ngần trước cột mốc một ngàn một trăm mười sáu
ranh giới nước non
Nghe Tổ quốc linh thiêng muôn đời uy nghi chủ quyền bền vững
Lạng Sơn tháng năm này
theo anh về Kỳ Lừa thơm ngát rượu Mẫu Sơn
ngon ngọt bánh Cao Sằng, phở chua, cuốn trứng…
ơn tổ tiên lưu giữ cho con cháu Lạc Hồng
cả một dải địa đồ trùng điệp núi sông.

CẢM XÚC LẠNG SƠN - Thơ của Nguyễn Thị Hồng Chinh - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng

Thơ của Nguyễn Thị Hồng Chinh - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng – sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 5/2019.

CẢM XÚC LẠNG SƠN
 
Trập trùng núi
chập chùng mây
đường lên Lạng Sơn cao chót vót
cao ngất như ngọn Mẫu Sơn
giăng giăng luỹ thành ải Bắc
che chắn yên bình nước non
con sông Kỳ Cùng chảy suốt bốn nghìn năm
tưới mượt miền quê Đông Bắc
cho cây hồi chuyên canh xanh vùng Văn Quan, Bình Gia, Văn Lãng…
cho mẹ cha cuộc sống mới, đổi đời…
Em theo anh về Lạng Sơn sớm nay
lần đầu trước động Tam Thanh.
lòng rung động
lần đầu tiên gặp Ải Chi Lăng
nghe tiếng người xưa vọng về từ muôn trước
nghe lễ hội Pác Mòng tháng giêng Đồng Đăng Xuân mượt
thấy vua Đinh du hành mừng non nước yên nguyên
nghe tiếng khèn môi ai thổi bên sông
gửi nhớ thương ai mà mai chiều réo rắt
như hòn Vọng Phu bồng con đứng dưới trời
ngàn năm trầm mặc
son sắt đợi chờ…
em tần ngần trước cột mốc một ngàn một trăm mười sáu
ranh giới nước non
Nghe Tổ quốc linh thiêng muôn đời uy nghi chủ quyền bền vững
Lạng Sơn tháng năm này
theo anh về Kỳ Lừa thơm ngát rượu Mẫu Sơn
ngon ngọt bánh Cao Sằng, phở chua, cuốn trứng…
ơn tổ tiên lưu giữ cho con cháu Lạc Hồng
cả một dải địa đồ trùng điệp núi sông.

Chùm thơ của Diệp Vy - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng

Chùm thơ của Diệp Vy – Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng – sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 5/2019.

THAO THỨC HƯƠNG HỒI
 
Ta đã khóc chiều nay trên xứ Lạng
Dòng Kỳ Cùng thổn thức nhịp tim đau
Dù đã muộn khi tìm về nguồn cội
Hơi thở hương hồi thấm tận vành nôi
Qua triền dốc quanh co về bản cũ
Con đường mòn lởm chởm đá găm chân
Như hờn trách bao năm rồi cách biệt
Những ngọt bùi trên rốn mẹ phù sa
Bếp lửa hồng củi tí tách reo vui
Đón người con xa quê giờ trở lại
Bánh Ngải xanh đậm đà nguồn cội
Đặc quánh lòng như vị nếp bao quanh
Rượu Mẫu Sơn chếnh choáng người xa xứ
Cháy trong hồn khao khát một miền thương
Phố Kỳ Lừa đêm nay đẫm trong sương
Ngỡ đang mơ ta cấu mình thật mạnh
Câu hát sli như suối nguồn tràn mạch
Thấm sâu vào thớ thịt chân da
Núm nhau nào chôn dấu dưới cội đa
Khứa vào ruột gan tận cùng nỗi nhớ…
 
KHU VƯỜN CŨ
Khu vườn cũ vẫn không gì thay đổi
Trúc vẫn xanh cỏ vẫn mượt ven bờ
Hồ sen tím vươn mình sau giông bão
Như cuộc người cứ phải mãi vươn lên
Cuối mùa thu hoa cúc vàng bên dậu
Khóm thì là như cũng muốn khoe khoang
Trong sắc nắng vàng tươi màu ánh lụa
Cứ hồn nhiên như thiếu nữ xuân thì
Khu vườn cũ thiếu tay người chăm bón
Một chút gầy – một chút xác xơ đau
Cơn gió lạnh chiều vô tình ập đến
Hồn chao nghiêng nỗi nhớ bỗng dâng đầy
Khu vườn cũ bước chân người in dấu
Từng bụi cây – khóm trúc quyện hương say
Tháng mười đến chớm đông về giăng mắc
Sợi buồn vương khoé mắt dõi xa xăm.

Chùm thơ của Diệp Vy - Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng

Chùm thơ của Diệp Vy – Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng – sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 5/2019.

THAO THỨC HƯƠNG HỒI
 
Ta đã khóc chiều nay trên xứ Lạng
Dòng Kỳ Cùng thổn thức nhịp tim đau
Dù đã muộn khi tìm về nguồn cội
Hơi thở hương hồi thấm tận vành nôi
Qua triền dốc quanh co về bản cũ
Con đường mòn lởm chởm đá găm chân
Như hờn trách bao năm rồi cách biệt
Những ngọt bùi trên rốn mẹ phù sa
Bếp lửa hồng củi tí tách reo vui
Đón người con xa quê giờ trở lại
Bánh Ngải xanh đậm đà nguồn cội
Đặc quánh lòng như vị nếp bao quanh
Rượu Mẫu Sơn chếnh choáng người xa xứ
Cháy trong hồn khao khát một miền thương
Phố Kỳ Lừa đêm nay đẫm trong sương
Ngỡ đang mơ ta cấu mình thật mạnh
Câu hát sli như suối nguồn tràn mạch
Thấm sâu vào thớ thịt chân da
Núm nhau nào chôn dấu dưới cội đa
Khứa vào ruột gan tận cùng nỗi nhớ…
 
KHU VƯỜN CŨ
Khu vườn cũ vẫn không gì thay đổi
Trúc vẫn xanh cỏ vẫn mượt ven bờ
Hồ sen tím vươn mình sau giông bão
Như cuộc người cứ phải mãi vươn lên
Cuối mùa thu hoa cúc vàng bên dậu
Khóm thì là như cũng muốn khoe khoang
Trong sắc nắng vàng tươi màu ánh lụa
Cứ hồn nhiên như thiếu nữ xuân thì
Khu vườn cũ thiếu tay người chăm bón
Một chút gầy – một chút xác xơ đau
Cơn gió lạnh chiều vô tình ập đến
Hồn chao nghiêng nỗi nhớ bỗng dâng đầy
Khu vườn cũ bước chân người in dấu
Từng bụi cây – khóm trúc quyện hương say
Tháng mười đến chớm đông về giăng mắc
Sợi buồn vương khoé mắt dõi xa xăm.

Nguyễn Du và “Bắc hành tạp lục” - Nghiên cứu văn học của Trần Đắc Trung – Hội văn học nghệ thuật Nam Định

Nghiên cứu văn học của Trần Đắc Trung – Hội văn học nghệ thuật Nam Định - sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 9/2019. Tác phẩm được đăng trên tạp chí Văn nhân số 127.

Nguyễn Du và “Bắc hành tạp lục” (Trích)

Sau “Thanh Hiên thi tập” và “Nam Trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục” – tập thơ chữ Hán thứ ba của Nguyễn Du được sáng tác trong thời gian ông đi sứ nhà Thanh (1813-1814). Tập thơ không chỉ in đậm bóng dáng một sứ thần với công việc bang giao sự vụ, mà là tâm sự một thi nhân với cảm quan nhạy bén và nỗi niềm nhân thế sâu nặng. Cũng như “Truyện Kiều”, bằng lời lẽ khiêm cung, tác giả tự coi tác phẩm là “lời quê chắp nhặt”. Tập thơ “Bắc hành tạp lục” với nội dung phong phú, ôm trùm cả không gian thời gian lịch sử Trung Quốc mấy nghìn năm, ông cũng chỉ coi là những trang nhật ký vụn vặt, những ghi chép tản mạn, là cuốn “Tạp lục”. Tuy nhiên, tập thơ có nhiều nét đặc sắc, chiếm vị trí độc đáo trong dòng thơ đi sứ. Nếu đặt “Bắc hành tạp lục” bên cạnh các tác phẩm thơ của các sứ thần cùng thời với ông như “Hoa trình thi tập” của Đoàn Nguyễn Tuấn, “Hoàng hoa đồ phả” của Ngô Thời Nhậm, “Hoa trình tiêu khiển” của Nguyễn Đề, “Hoa nguyên thi thảo” của Lê Quang Định, “Thập anh đường thi tập” của Ngô Nhân Tĩnh…thì “Bắc hành tạp lục” được viết trong thời gian ngắn với số bài nhiều nhất. Chỉ trong vòng một năm, từ tháng 3 năm Quý Dậu ghi dấu sứ bộ lên đường từ Phú Xuân, đến tháng 3 năm Giáp Tuất, về đến cửa khẩu Nam Quan, cùng với việc hoàn thành xuất sắc vai trò chánh sứ, ông còn có 132 bài thơ, trong đó có tới 18 bài trường thiên, theo các thể ca và hành (30 đến 50 câu). Điều ấy đủ nói lên cảm xúc phong phú tràn đầy, dồn nén khi được phát lộ. Thể thơ luật thất ngôn bát cú, tứ tuyệt đã không còn đủ sức bao chở, phải cần đến các thể thơ khác phóng khoáng hơn để diễn đạt. “Có thể nói đây là khoảng thời gian mà ngòi bút trác việt và cảm xúc thơ Nguyễn Du bùng lên mạnh mẽ nhất” (Vương Trọng).

Nét nổi bật khác ở tập thơ này, như đã nói, trong suốt thời gian lộ trình, Nguyễn Du không hề nói đến công chuyện đi sứ, không đề cập đến vấn đề xã giao thù tiếp của Triều đình và quan lại địa phương, cũng không thấy bộc lộ tâm trạng vui vẻ hay muộn phiền với công việc của người chánh sứ. Phần đa là những trang thơ thế sự, về con người và cuộc sống phương Bắc. Ngay trong những bài tức cảnh hay vịnh sử cũng luôn sáng lên triết lý nhân sinh và ấm nóng hơi thở cuộc sống nhân quần.

Có thể trong suốt chuyến đi, nhà thơ vẫn có những bài thù tạc, nhưng trong “Bắc hành tạp lục” dạng thơ này hoàn toàn vắng bóng. Cũng có thể định hướng thi ca đã có chuyển đổi. Cái nhìn mới và cảm xúc nghệ thuật đã hướng ngòi bút tác giả sáng các vấn đề thiết yếu và rộng lớn hơn. “Bắc hành tạp lục” hàm chứa nội dung sâu sắc, phản ánh nhiều góc cạnh tâm hồn Nguyễn Du. Ở đây chỉ đề cập một vài khía cạnh nổi bật.

1- Những suy tư trăn trở của Nguyễn Du về thân phận con người, trong mối tương quan xã hội, và những hiện tượng lịch sử văn hoá.

Thơ chữ Nôm như “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh”, nhuần thấm tâm sự Nguyễn Du, phải thông qua số phận các nhân vật, thông qua các hiện tượng nghệ thuật để bày tỏ. Thơ chữ Hán có điều kiện phản ánh tâm sự tác giả trước biến cố cuộc sống trực diện hơn.

Xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc, Nguyễn Du được ảnh hưởng nhiều từ nền văn hoá Trung Hoa thông qua các sách kinh, truyện, sử, tử. Các triều đại Tam Hoàng Ngũ đế, tư tưởng Khổng, Mạnh, Lão, Trang mà chế độ phong kiến coi là lý tưởng; những nhà văn hoá, anh hùng nghĩa sĩ, tiêu biểu tính cách Trung Hoa như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nhạc Phi, Văn Thiên Tường, Kinh Kha, Dự Nhượng…từng gieo vào ông ấn tượng sâu sắc. Lần này, trong lộ trình sứ bộ, con mắt của vị Cần Chánh Điện đại học sỹ có điều kiện để mục sở thị những di tích con người từng suy tư chiêm nghiệm để có thêm nhận thức và xúc cảm mới.

Nguyễn Du kính trọng Khuất Nguyên, người viết Ly Tao được coi là kế tiếp Quốc Phong của Kinh Thi. Ông xót thương tấm lòng cô trung, hết lòng với nước, bị biếm xa Tổ quốc 3 năm trong khôn xiết đau buồn. Giữa một xã hội nhiễu nhương “Chúng nhân giai tuý ngã độc tỉnh” (Người người đều say riêng mình tỉnh), mặt đất nơi nơi là sông Mịch La đầy sói lang cạm bẫy, ông thương Khuất Nguyên không biết gửi tấm lòng trung nghĩa vào đâu. “Tứ phương hà xứ thác cô trung”. Nhìn đám hội đua thuyền trên sông Nguyên Tương mịt mù khói sóng, ông chua xót thấy người đời gần đây thích trang phục lạ. Họ cũng đeo hoa tiêu, hoa lan trong ngày Đoan ngọ mà chẳng giống Khuất Nguyên chút nào. Có lẽ trong ông dấy lên niềm trăn trở: Sự thực đó nói lên điều gì, thói đời hay luỵ tục?
Cận thời mỗi hảo vi kỳ phục
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng
Với Đỗ Phủ, bậc “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư” (Văn chương để muôn đời, người thầy của muôn đời). Ông bày tỏ nỗi niềm hậu thế, thương mà chỉ biết rơi nước mắt. Ông trăn trở trước nỗi cùng quẫn của bậc Thánh thi “Nhất cùng tri thử khởi công thi” (cùng quẫn đến thế có phải vì giỏi thơ), chẳng đành lòng nghe các con trai gái Đỗ Phủ rên khóc vì đói cơm. Nhà thơ treo trước nhân gian một tiêu đề nhức nhói, không chỉ cho quá khứ mà cả hiện tại và tương lai, cho bao thế hệ thi sĩ chân chính. “Văn chương quang diệm thành hà dụng” (Văn chương ngời sáng dùng được việc gì). Trong bài Lỗ Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, có một chi tiết cảm động. Đương thời nhà thơ Đỗ Phủ mắc nhiều bệnh: tê bì, nhĩ minh (tê liệt, tai điếc), không thấy nói đến bệnh lắc đầu. Có lẽ đồng thanh tương ứng, đồng bệnh tương lân, Nguyễn Du đưa ra một câu hỏi mà như một cách bóng gió:
Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị?
(Chứng lắc đầu đã khỏi được chưa?)

Hai ông già, hai thi sĩ dị hương dị đại sống cách nhau nghìn năm, trò chuyện hỏi han những lời chân tình thân thiết. Phải chăng đó là những trái tim lớn mang khổ đau và tình yêu thương lớn. Hiểu và cảm phục Đỗ Phủ, ông luôn tin vào tài năng và nhân cách bậc tiền bối, ở đâu lúc nào cũng giữ được tình yêu rộng lớn và tấm lòng trung “Địa hạ vô linh quý bối xi” (Dưới đất đừng để cho lũ ma quỷ cười mình).

Với các bậc trung thần nghĩa sĩ khác, Nguyễn Du hết lòng ca ngợi tấm gương vị nghĩa quên thân. Đến sông Dịch Thuỷ, nhìn dòng nước lạnh từ xưa vẫn chảy hoài, làng cũ Kinh Kha chỉ còn cỏ gai rậm rạp, nhà thơ day dứt ý nghĩa sự sống, giá trị của hành động anh hùng:
Mạc đạo chuỷ thủ canh vô tế
Yết can trảm mộc vi tiên thanh
(Chớ bảo mũi dao nhọn chẳng ích gì, nó mở đầu cho việc chặt cây làm cán cờ khởi nghĩa). Cái chết của Kinh Kha thức tỉnh và gieo mầm cho sự quật khởi lật nhào chế độ tàn bạo của Tần Thuỷ Hoàng. Cũng như vậy, với Liễu Hạ Huệ (người nước Lỗ thời Xuân Thu) bậc sỹ sư danh tiết lấy đạo ngay thẳng thờ vua ba lần bị truất vẫn giữ lòng trung vì nước. Sau nghìn năm vùi trong cỏ hoang, bia đá đã tàn, chữ đã mờ nhưng danh thơm, dấu cũ không mất. Ta chứng kiến trong thơ Nguyễn Du một động tác đầy ấn tượng của kẻ sỹ gặp nhau. Nguyễn Du đã xuống xe trân trọng bày tỏ niềm kính phục:
Bi tàn một tự mai hoang thảo
Thiên cổ văn phong nhất há xa

Trên lộ trình sứ bộ, những điều tai nghe mắt thấy không giống những gì Nguyễn Du thường tưởng tượng. Xã hội phong kiến đời Thanh ngỡ như bình trị, nhưng là một xã hội đầy ngang trái, đói rét, giặc giã, thiên tai. Số phận con người thật mong manh bị đẩy đến cùng cực. Hãy xem cảnh binh lửa nhao nhác suốt một vùng Hà Nam, Sơn Đông, Trực Lệ: “Đầy thành gió Tây thổi mùi máu tanh, bụi cuốn che cả mặt trời, nước sông Hoàng Hà dâng cao, năm ngày không có ăn phải đậu thuyền ngoài bãi” (Trở binh hành).

Trong “Bắc hành tạp lục”, hai lần Nguyễn Du viết về thân phận người mại ca, cả hai đều thấm đượm nỗi đau nhân thế. Ông xót cho cô Cầm người đẹp đất Thăng Long một thời “Áo hồng cũng mờ nhạt vì gương mặt hoa đào”. “Các quan Tây Sơn trong tiệc thấy đều nghiêng ngả, tả hữu tiền bạc gieo thưởng như đất bùn”. Hai mươi năm chiến tranh tao loạn vật vã mưu sinh, ngày gặp lại chỉ còn hình bóng xác ve một đời ca kỹ. Còn ông xẩm già hát rong ở phủ Thái Bình (Hồ Nam) hát để xin ăn “Căng hết tâm lực gần một trống canh, bọt mép sùi ra tay mỏi rạc” mà vẫn chỉ được năm sáu đồng tiền, khi được dắt ra khỏi thuyền còn quay lại nói lời chúc phúc. Hai người nghệ sỹ, hai phương trời, cùng khéo léo tài hoa, và cùng tử tế thì số phận hẩm hiu cùng cực. Tác giả nghẹn ngào “Ngã xạ kiến chi bi thả tân” (Ta chợt thấy vừa buồn đau vừa chua xót). Tình cảm của Nguyễn Du vượt qua ranh giới dân tộc. Đó là tình con người, tình nhân loại.

Ở một hoàn cảnh khác, Nguyễn Du không cầm lòng đậu trước cảnh bốn mẹ con người đàn bà nhà quê, gặp buổi hung niên phải bỏ làng phiêu bạt kiếm ăn. Những đứa trẻ đói khát rách rưới, nhếch nhác sợ sệt vẫn đang trong lứa tuổi vui đùa, chưa thấu hiểu hết nỗi đau người mẹ. Tình cảnh một người làm thuê kiệt sức không nuôi nổi bốn miệng ăn, thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh, máu thịt quăng cho lũ sói cầy “Mẹ chết không tiếc nhưng nhìn con mà đứt ruột”, Nguyễn Du muốn vạch trời kêu đến chín tầng cao. Bài thơ như một bức tranh tố cáo, lại như một hồi chuông thức tỉnh….

Nguyễn Du và “Bắc hành tạp lục” - Nghiên cứu văn học của Trần Đắc Trung – Hội văn học nghệ thuật Nam Định

Nghiên cứu văn học của Trần Đắc Trung – Hội văn học nghệ thuật Nam Định - sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 9/2019. Tác phẩm được đăng trên tạp chí Văn nhân số 127.

Nguyễn Du và “Bắc hành tạp lục” (Trích)

Sau “Thanh Hiên thi tập” và “Nam Trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục” – tập thơ chữ Hán thứ ba của Nguyễn Du được sáng tác trong thời gian ông đi sứ nhà Thanh (1813-1814). Tập thơ không chỉ in đậm bóng dáng một sứ thần với công việc bang giao sự vụ, mà là tâm sự một thi nhân với cảm quan nhạy bén và nỗi niềm nhân thế sâu nặng. Cũng như “Truyện Kiều”, bằng lời lẽ khiêm cung, tác giả tự coi tác phẩm là “lời quê chắp nhặt”. Tập thơ “Bắc hành tạp lục” với nội dung phong phú, ôm trùm cả không gian thời gian lịch sử Trung Quốc mấy nghìn năm, ông cũng chỉ coi là những trang nhật ký vụn vặt, những ghi chép tản mạn, là cuốn “Tạp lục”. Tuy nhiên, tập thơ có nhiều nét đặc sắc, chiếm vị trí độc đáo trong dòng thơ đi sứ. Nếu đặt “Bắc hành tạp lục” bên cạnh các tác phẩm thơ của các sứ thần cùng thời với ông như “Hoa trình thi tập” của Đoàn Nguyễn Tuấn, “Hoàng hoa đồ phả” của Ngô Thời Nhậm, “Hoa trình tiêu khiển” của Nguyễn Đề, “Hoa nguyên thi thảo” của Lê Quang Định, “Thập anh đường thi tập” của Ngô Nhân Tĩnh…thì “Bắc hành tạp lục” được viết trong thời gian ngắn với số bài nhiều nhất. Chỉ trong vòng một năm, từ tháng 3 năm Quý Dậu ghi dấu sứ bộ lên đường từ Phú Xuân, đến tháng 3 năm Giáp Tuất, về đến cửa khẩu Nam Quan, cùng với việc hoàn thành xuất sắc vai trò chánh sứ, ông còn có 132 bài thơ, trong đó có tới 18 bài trường thiên, theo các thể ca và hành (30 đến 50 câu). Điều ấy đủ nói lên cảm xúc phong phú tràn đầy, dồn nén khi được phát lộ. Thể thơ luật thất ngôn bát cú, tứ tuyệt đã không còn đủ sức bao chở, phải cần đến các thể thơ khác phóng khoáng hơn để diễn đạt. “Có thể nói đây là khoảng thời gian mà ngòi bút trác việt và cảm xúc thơ Nguyễn Du bùng lên mạnh mẽ nhất” (Vương Trọng).

Nét nổi bật khác ở tập thơ này, như đã nói, trong suốt thời gian lộ trình, Nguyễn Du không hề nói đến công chuyện đi sứ, không đề cập đến vấn đề xã giao thù tiếp của Triều đình và quan lại địa phương, cũng không thấy bộc lộ tâm trạng vui vẻ hay muộn phiền với công việc của người chánh sứ. Phần đa là những trang thơ thế sự, về con người và cuộc sống phương Bắc. Ngay trong những bài tức cảnh hay vịnh sử cũng luôn sáng lên triết lý nhân sinh và ấm nóng hơi thở cuộc sống nhân quần.

Có thể trong suốt chuyến đi, nhà thơ vẫn có những bài thù tạc, nhưng trong “Bắc hành tạp lục” dạng thơ này hoàn toàn vắng bóng. Cũng có thể định hướng thi ca đã có chuyển đổi. Cái nhìn mới và cảm xúc nghệ thuật đã hướng ngòi bút tác giả sáng các vấn đề thiết yếu và rộng lớn hơn. “Bắc hành tạp lục” hàm chứa nội dung sâu sắc, phản ánh nhiều góc cạnh tâm hồn Nguyễn Du. Ở đây chỉ đề cập một vài khía cạnh nổi bật.

1- Những suy tư trăn trở của Nguyễn Du về thân phận con người, trong mối tương quan xã hội, và những hiện tượng lịch sử văn hoá.

Thơ chữ Nôm như “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh”, nhuần thấm tâm sự Nguyễn Du, phải thông qua số phận các nhân vật, thông qua các hiện tượng nghệ thuật để bày tỏ. Thơ chữ Hán có điều kiện phản ánh tâm sự tác giả trước biến cố cuộc sống trực diện hơn.

Xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc, Nguyễn Du được ảnh hưởng nhiều từ nền văn hoá Trung Hoa thông qua các sách kinh, truyện, sử, tử. Các triều đại Tam Hoàng Ngũ đế, tư tưởng Khổng, Mạnh, Lão, Trang mà chế độ phong kiến coi là lý tưởng; những nhà văn hoá, anh hùng nghĩa sĩ, tiêu biểu tính cách Trung Hoa như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nhạc Phi, Văn Thiên Tường, Kinh Kha, Dự Nhượng…từng gieo vào ông ấn tượng sâu sắc. Lần này, trong lộ trình sứ bộ, con mắt của vị Cần Chánh Điện đại học sỹ có điều kiện để mục sở thị những di tích con người từng suy tư chiêm nghiệm để có thêm nhận thức và xúc cảm mới.

Nguyễn Du kính trọng Khuất Nguyên, người viết Ly Tao được coi là kế tiếp Quốc Phong của Kinh Thi. Ông xót thương tấm lòng cô trung, hết lòng với nước, bị biếm xa Tổ quốc 3 năm trong khôn xiết đau buồn. Giữa một xã hội nhiễu nhương “Chúng nhân giai tuý ngã độc tỉnh” (Người người đều say riêng mình tỉnh), mặt đất nơi nơi là sông Mịch La đầy sói lang cạm bẫy, ông thương Khuất Nguyên không biết gửi tấm lòng trung nghĩa vào đâu. “Tứ phương hà xứ thác cô trung”. Nhìn đám hội đua thuyền trên sông Nguyên Tương mịt mù khói sóng, ông chua xót thấy người đời gần đây thích trang phục lạ. Họ cũng đeo hoa tiêu, hoa lan trong ngày Đoan ngọ mà chẳng giống Khuất Nguyên chút nào. Có lẽ trong ông dấy lên niềm trăn trở: Sự thực đó nói lên điều gì, thói đời hay luỵ tục?
Cận thời mỗi hảo vi kỳ phục
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng
Với Đỗ Phủ, bậc “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư” (Văn chương để muôn đời, người thầy của muôn đời). Ông bày tỏ nỗi niềm hậu thế, thương mà chỉ biết rơi nước mắt. Ông trăn trở trước nỗi cùng quẫn của bậc Thánh thi “Nhất cùng tri thử khởi công thi” (cùng quẫn đến thế có phải vì giỏi thơ), chẳng đành lòng nghe các con trai gái Đỗ Phủ rên khóc vì đói cơm. Nhà thơ treo trước nhân gian một tiêu đề nhức nhói, không chỉ cho quá khứ mà cả hiện tại và tương lai, cho bao thế hệ thi sĩ chân chính. “Văn chương quang diệm thành hà dụng” (Văn chương ngời sáng dùng được việc gì). Trong bài Lỗ Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, có một chi tiết cảm động. Đương thời nhà thơ Đỗ Phủ mắc nhiều bệnh: tê bì, nhĩ minh (tê liệt, tai điếc), không thấy nói đến bệnh lắc đầu. Có lẽ đồng thanh tương ứng, đồng bệnh tương lân, Nguyễn Du đưa ra một câu hỏi mà như một cách bóng gió:
Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị?
(Chứng lắc đầu đã khỏi được chưa?)

Hai ông già, hai thi sĩ dị hương dị đại sống cách nhau nghìn năm, trò chuyện hỏi han những lời chân tình thân thiết. Phải chăng đó là những trái tim lớn mang khổ đau và tình yêu thương lớn. Hiểu và cảm phục Đỗ Phủ, ông luôn tin vào tài năng và nhân cách bậc tiền bối, ở đâu lúc nào cũng giữ được tình yêu rộng lớn và tấm lòng trung “Địa hạ vô linh quý bối xi” (Dưới đất đừng để cho lũ ma quỷ cười mình).

Với các bậc trung thần nghĩa sĩ khác, Nguyễn Du hết lòng ca ngợi tấm gương vị nghĩa quên thân. Đến sông Dịch Thuỷ, nhìn dòng nước lạnh từ xưa vẫn chảy hoài, làng cũ Kinh Kha chỉ còn cỏ gai rậm rạp, nhà thơ day dứt ý nghĩa sự sống, giá trị của hành động anh hùng:
Mạc đạo chuỷ thủ canh vô tế
Yết can trảm mộc vi tiên thanh
(Chớ bảo mũi dao nhọn chẳng ích gì, nó mở đầu cho việc chặt cây làm cán cờ khởi nghĩa). Cái chết của Kinh Kha thức tỉnh và gieo mầm cho sự quật khởi lật nhào chế độ tàn bạo của Tần Thuỷ Hoàng. Cũng như vậy, với Liễu Hạ Huệ (người nước Lỗ thời Xuân Thu) bậc sỹ sư danh tiết lấy đạo ngay thẳng thờ vua ba lần bị truất vẫn giữ lòng trung vì nước. Sau nghìn năm vùi trong cỏ hoang, bia đá đã tàn, chữ đã mờ nhưng danh thơm, dấu cũ không mất. Ta chứng kiến trong thơ Nguyễn Du một động tác đầy ấn tượng của kẻ sỹ gặp nhau. Nguyễn Du đã xuống xe trân trọng bày tỏ niềm kính phục:
Bi tàn một tự mai hoang thảo
Thiên cổ văn phong nhất há xa

Trên lộ trình sứ bộ, những điều tai nghe mắt thấy không giống những gì Nguyễn Du thường tưởng tượng. Xã hội phong kiến đời Thanh ngỡ như bình trị, nhưng là một xã hội đầy ngang trái, đói rét, giặc giã, thiên tai. Số phận con người thật mong manh bị đẩy đến cùng cực. Hãy xem cảnh binh lửa nhao nhác suốt một vùng Hà Nam, Sơn Đông, Trực Lệ: “Đầy thành gió Tây thổi mùi máu tanh, bụi cuốn che cả mặt trời, nước sông Hoàng Hà dâng cao, năm ngày không có ăn phải đậu thuyền ngoài bãi” (Trở binh hành).

Trong “Bắc hành tạp lục”, hai lần Nguyễn Du viết về thân phận người mại ca, cả hai đều thấm đượm nỗi đau nhân thế. Ông xót cho cô Cầm người đẹp đất Thăng Long một thời “Áo hồng cũng mờ nhạt vì gương mặt hoa đào”. “Các quan Tây Sơn trong tiệc thấy đều nghiêng ngả, tả hữu tiền bạc gieo thưởng như đất bùn”. Hai mươi năm chiến tranh tao loạn vật vã mưu sinh, ngày gặp lại chỉ còn hình bóng xác ve một đời ca kỹ. Còn ông xẩm già hát rong ở phủ Thái Bình (Hồ Nam) hát để xin ăn “Căng hết tâm lực gần một trống canh, bọt mép sùi ra tay mỏi rạc” mà vẫn chỉ được năm sáu đồng tiền, khi được dắt ra khỏi thuyền còn quay lại nói lời chúc phúc. Hai người nghệ sỹ, hai phương trời, cùng khéo léo tài hoa, và cùng tử tế thì số phận hẩm hiu cùng cực. Tác giả nghẹn ngào “Ngã xạ kiến chi bi thả tân” (Ta chợt thấy vừa buồn đau vừa chua xót). Tình cảm của Nguyễn Du vượt qua ranh giới dân tộc. Đó là tình con người, tình nhân loại.

Ở một hoàn cảnh khác, Nguyễn Du không cầm lòng đậu trước cảnh bốn mẹ con người đàn bà nhà quê, gặp buổi hung niên phải bỏ làng phiêu bạt kiếm ăn. Những đứa trẻ đói khát rách rưới, nhếch nhác sợ sệt vẫn đang trong lứa tuổi vui đùa, chưa thấu hiểu hết nỗi đau người mẹ. Tình cảnh một người làm thuê kiệt sức không nuôi nổi bốn miệng ăn, thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh, máu thịt quăng cho lũ sói cầy “Mẹ chết không tiếc nhưng nhìn con mà đứt ruột”, Nguyễn Du muốn vạch trời kêu đến chín tầng cao. Bài thơ như một bức tranh tố cáo, lại như một hồi chuông thức tỉnh….

XÓM BÃI - Thơ của Phạm Trường Thi - Hội văn học nghệ thuật Nam Định

Thơ của Phạm Trường Thi - Hội văn học nghệ thuật Nam Định - sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 9/2019. Tác phẩm được đăng trên tạp chí Văn nhân số 127.

XÓM BÃI
Loi doi dải đất ven sông
Phù sa bồi mãi vẫn không thành làng
Nhà tranh mươi nóc dọc ngang
Gồng mình chống chọi phũ phàng bão giông
Mấy lần lũ quét sạch không
Ruộng vườn, nhà cửa mênh mông sóng dồi
Cuốn theo cả mấy mạng người
Từ xưa đã thế, lâu rồi thành quen
Vậy mà nhà cứ mọc lên
Vậy mà người cứ nhiều thêm mỗi ngày
Bao đời xóm Bãi đến nay
Không ai định bỏ đất này mà đi.
Subscribe to this RSS feed

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - TRUNG TÂM HỖ TRỢ SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUÂT
Địa chỉ : 1A Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại : 04 39.745.763
Bản quyền thuộc về Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác VHNT. Yêu cầu trích nguồn khi đăng tải nội dung từ trang web này