Minh Phương

Minh Phương

Chuyện tình bên bờ sông Kiến - Truyện ngắn của Nguyễn Thế Tường - Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình

Truyện ngắn của Nguyễn Thế Tường - Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 10/2020.

Chuyện tình bên bờ sông Kiến

Chiều hôm ấy, bên bờ sông Kiến giang anh đón em về...

    Có một đoạn ca từ như vậy trong bài hát về con sông này, nhưng chuyện đó kể sau. Bây giờ phải vào cuộc với nhân vật từ một góc khác...

    Tôi ngồi khá lâu với lão trên chiếc ghế đá dưới gốc cây hoa sữa cổ thụ bên bờ sông. Hữu ý mà như tình cờ, là tôi đọc được trên mạng một cái stt của hoạ sĩ tài danh ở đất Hà thành lại giới thiệu rất nồng nàn về con sông ở Bắc miền Trung: rằng, sông nhỏ mà đẹp nhất ông từng thấy, sông có nhiều bến nhất. Rằng, hai bờ là quê hương của những nhân vật gây ấn tượng mạnh nhất trong lịch sử cận đại và hiện đại: Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh định vị hình hài đất nước tới tận mũi Cà mau vào cuối thế kỷ mười bảy, đại tướng lừng danh Võ Nguyên Giáp và cả ngài tổng thống lầm đường họ Ngô giữa thế kỷ hai mươi. Và nữa, con sông lưu dấu của một mối tình si, bốn mươi lăm năm, một người đàn ông không chịu nguôi ngoai về bóng dáng một người tình năm xưa bên bến sông...

   Tôi tìm về , may mắn gặp được lão đây là chủ nhân của “mối tình si”ấy. Và, không cần gợi ý đến lần hai, lão dẫn luôn ra bậc bến, ngồi trên chiếc ghế đá này trong một đêm trăng ngời ngợi sáng tỏa bóng vàng xuống mặt nước...

  ...

  Bảy mươi, cổ nhân nói răng hè? Thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ, là bảy mươi tuổi làm gì mình thích cũng không sợ sai. Tôi chưa tới bảy mươi nhưng cũng không còn muốn để kỷ niệm chất chứa trong lòng nữa rồi, phải chia sẻ với cậu, để, một ngày đẹp trời có mây trắng nắng trong “gió gọi tôi về” thì đi cho thanh thản.

   Tôi quen nàng, tình cờ như tối nay gặp cậu vậy. Mủa thu năm 1973, hiệp định Pa ri ký kết đã hơn nửa năm. Từ quân y viện, khi vết thương vừa lên da non, tôi xin về thăm nhà vài ngày gặp đúng dịp ở quê mở hội đua thuyền mừng tết độc lập. Có lẽ trên đất nước này cũng hiếm có nơi đâu gọi ngày quốc khánh là “tết độc lập” và “ăn tết” bằng lễ hội đua thuyền hoành tráng và độc đáo như ở đây. Cung đường bơi cả mười mấy ki lô mét, năm xưa, bơi đến ba vòng sáu tao, là dài bao nhiêu? Tôi, không giống những trai làng phóng xe đạp theo đò bơi của làng mình hò hét cổ vũ mà chỉ ngồi trên bãi cỏ ven sông trong tâm trạng hân hoan chiêm ngắm mấy chục thuyền bơi lần lượt lướt qua. Rồi không gian lại yên tĩnh chờ đón vòng đua trở lên. Đầu tháng chín, tiết thu, nắng vàng mật ong gió hây hẩy. Có tiếng kẹt xe khe khẽ sau lưng. Tôi quay lại, một thiếu nữ đang cúi người lúng túng gỡ cái vòng xích bị mắc trong ổ líp xe đạp. Tác phong lính rèn dũa đã ba năm, tôi bật dậy, xoay người. Ba năm kéo cần lái xe Tăng “cách năm cây số còn hăng mùi dầu” sá gì cái xích xe đạp nhỏ bé. Cậu ơi, khi cái vòng xích quay ro ro quanh ổ líp thì da mặt tôi mơ hồ có một làn tóc vuốt qua...thơm mùi, mùi gì cậu biết không? Nói thì cậu cho tôi chém gió ngoa ngôn, nhưng thực thà mà nói là không thể định hương ngay được. Không hẳn lá chanh hay lá sả, hương nhu hay bạc hà, mà là hương đồng nội cậu ạ. Cái mùi hương đã hấp dẫn tôi từ hồi còn bé dại lan ra từ Mẹ hay các chị gái sau mỗi lần gội đầu. Và nữa, thoảng như một làn gió nhẹ là lời cảm ơn vọng vào tai như không có thật. Rồi đó, nàng đạp xe đi. Tôi đứng như trời trồng: Trái tim chiến binh tuổi hai mươi lập tức bị cầm tù. Chết bỏ mẹ thằng tây! Lính trận như tôi mà tim bị “cầm tù” thì chịu chi nổi. May, có con em họ giúp sức, nghe tôi miêu tả vóc dáng, nước da nâu, mái tóc bồng bềnh tự nhiên là...nó định danh được ngay là nàng, bạn nó. Còn chờ gì nữa, ngay tối ấy, tôi bắt nó làm hướng đạo vượt sông sang thăm nhà. Con sông nhỏ, trẻ con hai bờ tắm sông thường lấy đất ném nhau. Ngày Đại tướng về thăm quê, đâu như cuối thập niên sáu mươi, bảy tám tuổi chúng tôi đã dám vượt sông ào ạt chạy theo xe của ông với tấm lòng ngưỡng mộ vô bờ bến... Nàng, mười bảy tuổi đã là một cô xã viên dệt chiếu cói có hạng trong vùng. Nhiều buổi, thằng lính là tôi ngồi mê mẩn nhìn nàng xe tra, luồn dây, dệt chiếu. Bàn tay như được đào tạo qua trường dành cho diễn viên múa. Làn tóc lượn sóng tự nhiên xõa nghiêng bên má che nửa khuôn mặt thanh tân... Cứ hồi tưởng lại những dòng ký ức này là tôi buồn lắm. Tạo hóa đã đặt vào lòng bàn tay tôi một viên ngọc quý mà tôi không biết đường nắm lại, để viên ngọc lăn đi, cậu ơi...!

   Tôi nhìn sang, cứ ngỡ như lão sắp khóc...

   ...Trung thu năm 1973, ấy trăng sáng lắm, hai bờ sông về đêm đường làng ngõ xóm như được dát vàng. Chắc cậu còn nhớ, từ tháng tư năm bảy hai, sau khi ta mở chiến dịch Quảng Trị, không lực Mỹ ném bom miền Bắc trở lại, trận “Điện biên phủ trên không” ở Hà Nội, rồi hiệp định Pa ri ký kết, người dân tuyến lửa quê tôi mới dường như chắc chắn hết cảnh bom đạn. Sinh hoạt xã hội trong thôn xóm được nới ra ít nhiều. Đêm, trong không gian làng quê không chỉ có tiếng sáo trúc dìu dặt mà đã nghe bập bùng ghi ta. Thì chính tôi mang cây đàn từ Hà nội về trước ngày nhập ngũ. Tôi cùng đứa em họ sang bến nước nhà nàng, cùng với một nhóm bạn tập hát một ca khúc truyền lại từ đầu những năm sáu mươi, trước chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ. Bài hát này, mãi về sau tôi mới biết người làm thơ vườn ở quê đã phổ lời vào bản nhạc của ca khúc bên Nga. Lời của nó bắt đầu bằng câu hát vừa nhắc trên đây, rất hợp với trạng thái tình cảm của chúng tôi lúc đó. Để tôi thử hát lại cậu nghe. Thời trẻ tôi có giọng lắm nhé, đừng tưởng.

   Nói là làm, lão dặng hắng mấy cái cố bắt vào đúng nhịp:
       Chiều hôm ấy... bên bờ sông Kiến giang anh đón em về
       Trăng vời nước... ngày nào hai ta cùng nhau thề...bên sông vắng
       Dù xa nhau sông cạn đá mòn
       Tình duyên ta mãi mãi vẫn còn...
  Bất ngờ, lão dừng lại hỏi:
   -  Thế nào, đã nhận ra nhạc của ca khúc nào chưa? Cậu từng học Nga mấy năm lẽ nào không thấy giai điệu này quen.! Để rồi lát nữa tôi hát tiếp. Bây giờ kể cậu nghe phần hai câu chuyện nhé.

  ...Lần ấy, tôi trễ phép mấy ngày. Nhưng hề chi, lính cựu, máu công thần, lại đang ở đoàn an dưỡng để trở về đơn vị chiến đấu, đố ai dám phê bình phê chén. Thắng lợi lớn là tôi đã cầm được tay nàng. Cậu biết không, nàng run như một con chim zẽ. Tôi thì, đến lúc ấy chưa từng tỏ tình với ai, nhưng hai năm ở trường đại học nhồi nhét bao nhiêu chuyện tình tiểu thuyết thi ca, việc nói những lời “có cánh” với nàng là chuyện nhỏ. Nói chung là một chuyến nghỉ phép thắng lợi. Sau đó là những tháng ngày huấn luyện để trở lại chiến trường. Ngày ấy, tuổi trẻ sao hay thế! Thư đi từ lại toàn những lời nồng nàn thắm thiết. Đến đầu bảy lăm, khi tình đã nồng, những lời thề thốt đợi chờ trong thư đã như đinh đóng cột thì đơn vị được lệnh đi chiến dịch cuối cùng. Sau tháng tư bảy lăm, trong khi toàn dân hân hoan với ngày thống nhất non sông thì tôi một lần nữa mê man trong quân y viện, lại lên bàn mổ. Dù sao vẫn may mắn hơn khối thằng là không bị rán thành tóp mỡ trong xe hay thành khóí bay lên trời. Sọ bị thủng mấy chỗ nhưng chân tay còn nguyên. Tôi trở về trường học tiếp những năm cuối. Hè bảy sáu tưởng là thời gian hạnh phúc nhất đời tôi, ai ngờ...

                                                                   *

   Trong đời làm báo làm văn, tôi từng tiếp xúc với nhiều số phận, nhiều cảnh đời, có thành đạt sung mãn có bất hạnh phũ phàng. Nhưng cái vẻ buồn ảo não man mác như lão già ven sông Kiến giang này khi kể về mối tình xưa của mình thì đúng là mới gặp lần đầu. Trăng trung tuần tháng tám vẫn rời rợi mặt nước. Bến bên kia sông, bỗng có một người phụ nữ nách xuống một chậu thau đầy quần áo. Đôi mắt lão chăm chắm nhìn ra xa như mờ đi...

  ...Cũng một đêm trăng, cậu ạ. Tôi từ Hà Nội về nghỉ hè, đến nhà thì đã muộn. Ăn cơm tối xong thì lăn ra ngủ vì đi đường khá mệt. Ngày ấy đi từ Hà Nội về Quảng Bình khó khăn và mệt mỏi như đi lên trời. Tôi chìm vào giấc ngủ, mang theo ý nghĩ sáng mai sẽ sang thăm nàng, lại thấy nàng bên khung dệt, làn tóc bồng bềnh che nghiêng nửa khuôn mặt, đôi cánh tay như múa. Gần sáng, có một cái gì động cựa chộn rộn dưới sông làm tôi tỉnh giấc. Nghe mơ hồ như có tiếng máy ca nô. Ngày ấy, người dân quê tôi di chuyển bằng thuyền vẫn chèo tay. Chỉ nhà nước phục vụ sự kiện lớn mới dùng ca nô. Thư trước, nàng có nói phong thanh như tỉnh nhà Bình Trị Thiên đang kêu gọi thanh niên lên đường xây dựng công trình thủy lợi ở phía Nam, nhưng nàng ngoài diện vì đang là thành viên Hợp tác xã Chiếu cói. Nhưng, biết đâu...?! Tôi mặc nguyên quần đùi áo lót  xuống bờ sông. Đúng là bờ bên kia có chiếc ca nô chở một tốp người sắp rời bến. Na! tôi bật lên một tiếng kêu đanh giọng. Vậy mà, cậu thấy đấy, từ chỗ chúng ta đang ngồi, cảm giác như phải kêu một tiếng tương đối lớn bờ bên kia mới nghe.Tôi không nhớ mình bật ra tiếng kêu âm vực thế nào mà lẫn trong tiếng ca nô một cô gái trên thuyền vẫn nghe thấy được. Cô nói vọng sang giọng lảnh lói:
  - Anh Cường phải không? Về khi mô rứa? Chị Na đi chuyến trước rồi.
  -  Đi mô?
  -  Anh không biết à? Đi thủy lợi Nam Thạch Hãn.
  -  Đi lâu chưa?
  - Khoảng mười lăm phút...
Tai tôi ù đi. Trong khoảng khắc giật mình, không hiểu sao tôi vẫn đủ tỉnh táo để ước lượng tốc độ ca nô, tốc độ phi thân của tôi và khoảng cách từ đây đến bờ phá Hạc Hải. Tôi co giò phóng về phía hạ nguồn, tranh chấp từng giây, lòng thầm cảm ơn những đợt rèn luyện chạy Việt dã trong quân ngũ. Dọc bờ sông, trăng vẫn rời rợi soi đường cho những bước chạy thần tốc của tôi. Xóm làng vẫn thiêm thiếp ngủ. Thỉnh thoảng, có những con chó của nhà ven đường giật mình choàng tỉnh sủa lên một tiếng rồi đuổi theo tôi như truy kích một thằng trộm đêm. Nhưng, loài chó nhà đáng mến kia làm sao đua được tốc độ với một kẻ điên đã mấy năm không gặp người yêu. Trước mặt đã là phá Hạc Hải. Trên lộ trình xuôi xuống cửa Nhật Lệ ở Đồng Hới, dòng Kiến Giang bồng phình ra thành vùng nước lợ bốn nghìn mẫu tây hoang hóa mọc đầy cây lác. Thế kỷ mười sáu, tiến sĩ Dương Văn An, người của chính làng bên kia sông đi làm quan ở Thăng Long mang về nghề dệt chiếu lác cho dân bản địa mưu sống. Nhưng, lúc ấy, tôi làm sao nghĩ nhiều đến vậy. Chiếc ca nô đang tiến ra mặt phá, còn tôi thì buộc lòng phải đứng lại. Bất ngờ, như thể có một luồng hơi mạnh chất chứa gần nghìn ngày dồn nén, tôi ngoác mồm hét to lên giữa thinh không vằng vặc ánh trăng:
   -  Na...ơ...i...!
  Mặt phá hoang sơ thì đương nhiên không có tiếng vọng lại. Chỉ có ngọn gió mơn man se lạnh thổi chan hòa vào mặt, vào tóc, ve vuốt an ủi, làm khô dòng nước mắt tuyệt vọng của tôi và ánh trăng nhạt nhòa đồng cảm.
    - Mấy mươi năm rồi à?
   - Cậu trừ đi, năm bảy sáu, bốn mươi ba năm.
   - Có gặp lại không?
   - Không.
   - Sao thế?
  -  Sao trên trời, vì nàng lấy chồng phương Nam xa xôi...
...

  Đúng ra là có gặp một lần, nhưng không giáp mặt. Tức là hai năm sau, tôi tốt nghiệp ra trường, lang thang xin việc ở Hà Nội, hết tiền bèn về quê tính chuyện “tá túc” Ba Mẹ một thời gian. Vấn đề là trong hai năm đó tôi mất liên lạc, không biết nàng đang làm công trình thủy lợi nào, và, điều này mới quan trọng, không xu dính túi để có thể đi tìm. Tôi đã nói, là hành trình Hà Nội- Quảng Bình gian khổ như đi lên trời mà!

   Cuối năm bảy tám, mới xin được việc ở Huế, tôi về quê mấy ngày, chưa có lương nên vẫn ăn bám Ba Mẹ. Chiều tối, tôi lang thang xuống bến chẳng có dự định gì. Bất ngờ, linh cảm thấy bóng người ngồi rửa bát bên kia sông hình như quen quen. Cũng cái cách ngồi như người phụ nữ lúc nãy ấy cậu ạ, một dáng ngồi đồng quê ở bến sông gần giống nhau. Từ sáng, gặp con em họ, nghe hắn nói chị Na đã có người yêu, đâu như kỹ sư thủy lợi phụ trách công trình gì đấy cũng khá và sắp cưới. Ngày ấy chưa có khách sạn khách đá gì đâu. Cưới nhau thì căng tấm bạt giữa sân. Bàn ghế mượn hàng xóm. Bát đũa ly chén thì đã dự trữ sẵn trong rương, dở ra khi có việc. Trong chập choạng tối, dù đã hai năm xa cách, tôi vẫn mường tượng ra bóng người đang rửa ly chén  bên kia chắc là chuẩn bị cho tiệc cưới ngày mai. Tiệc gì đâu, cũng chỉ bánh kẹo thuốc lá. Sang thì kẹo Hải Châu mua từ Hà Nội, thuốc lá Tam Đảo, Điện Biên bao bạc. Khó thì kẹo cứng, thuốc lá cuộn, chè đâm. Phông màn thì vẽ hai con chim bồ câu chụm mỏ vào nhau, hai chữ cái là phụ âm đầu của hai cái tên cô dâu chú rể và câu khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Mịa, sắp lên giường thì chỉ có cái nhiệm vụ là “chiến” chứ làm gì...

   Cậu biết không? Không bao giờ nàng ngờ rằng tôi đang ở bên này sông. Và tôi trở lên nhà xách xuống cây đàn ghi ta, ngồi đúng vào chỗ tôi và cậu đang ngồi đây, hồi ây còn là vệ cỏ. Bên kia, nàng sắp ly chén vào rổ chuẩn bị trở lên. Tôi không kịp nghĩ gì nhiều, nên, cái hành vi có thể nói là độc ác đến bất chợt. Đúng lúc nàng nách rổ ly chén bước lên bậc bến thứ nhất thì tôi bấm một hợp âm. Tiếng đàn ghi ta vọng sang nhanh hơn cả khoảng khắc chân nàng đặt xuống bậc bến thứ hai. Tôi thề là trong bóng đêm không đặc lắm vẫn nhìn thấy bóng người con gái dường như chao đi. Và tôi hăng hái tiếp tục gảy khúc nhạc mà cách đó năm năm đã cùng nàng và nhóm bạn hát trong những đêm trăng ngời ngợi ở chính bến sông kia.
  Chiều hôm ấy, bên bờ sông kiến giang anh đón em về
  Trăng vời nước, ngày nào hai ta cùng nhau thề, bên sông vắng...
  - Này, cậu học đến năm năm bên Nga mà không nghe thấy giai diệu này là của ca khúc nào à?
  - Khúc khúc cái gì? Bác kể tiếp đi nào, sau đó rồi sao?
 Người đàn ông cao tuổi bỗng im lặng. Linh tính cho tôi biết có vấn đề của người già. Đúng là ông im lặng lâu hơn bình thường, rồi như phải lấy lại hơi, giọng ông nghèn nghẹn:
 - Thực tình, hơn bốn mươi năm qua, tôi không thể tự lý giải được vì sao lại làm vậy. Thật là hèn hạ. Ngay đêm trước ngày cưới của người ta mình lại xách đàn quậy phá. Cậu biết không, khi bản đàn tôi dạo đến câu: “ Mà giờ đây không còn duyên dáng/ Ôi tan đi khi bóng trăng tàn” thì nghe bên kia đánh xoảng một tiếng, giòn tan, như hàng chục cái ly đồng loạt bị vỡ. Trong bóng tối, lóe lên nhưng tia sáng xanh xanh yếu ớt của mảnh thủy tinh văng tung tóe. Nàng vẫn đứng yên trên bậc bến trong khi từ trên nhà có nhiều người chạy xuống hốt hoảng. Người ta soi đèn Hoa kỳ để tìm mảnh vỡ thủy tinh, người ta xuýt xoa hỏi han, trách cứ sao lại để cô dâu tự đi rửa ly chén, không một chút hoài nghi việc nàng trượt chân ngã. Vậy nhưng, lẫn trong tiếng ồn ào lộn xộn đó vẫn nghe vẳng tiếng một thiếu nữ ra vẻ nghi hoặc: “ khi hồi nghe có ai đánh đàn bên kia”. Mẹ ơi, chỉ nghe thế, tôi đã vội kẹp cây đàn vào sát người lanh lẹ chuồn lên nhà như một thằng ăn trộm...

   Ngày hôm sau, bên kia sông có tiếng pháo nổ...

                                                                 *

  - Thế vậy, từ đó đến nay bác không gặp lại nàng à?
  - Gặp làm sao được! Họ cưới xong đưa nhau về quê chồng tận miền Nam. Tôi lấy tư cách gì mà đi gặp. Bà con không phải. bạn bè tình thân cũng không...
   ...Nghe nói nhóm bạn của ông còn nửa đùa nửa thật dọa rằng, tay chồng của nàng có võ lại rất nóng tính và hay ghen, vớ vẩn là lãnh đủ. Khổ thân, từ đó đến nay, cứ về quê là ông xuống bến ngồi, bắt mặt ngó sang. Thỉnh thoảng lại còn đưa lên mạng xã hội, khi thì, “ Lễ hội này em có về không?”. Khi thì “Bên kia sông có người giặt áo” với cả “Có phải người xưa về đó không? sao mặt sông đầy khói sóng hay mắt ta nhòa lệ” khiến cộng đồng mạng thỉnh thoảng lại có dịp cười vui. Riêng tôi thì nghe giai điệu bài hát “Chuyện tình bên bờ sông kiến Giang” mà ông chỉ hát vài đoạn đã nhận ra ngay là nhạc của ca khúc “Hoa anh đào” trong nền âm nhạc Nga. Nhưng quả thật, một tay làm thơ vườn nào đó đã phổ lời vào bản nhạc bằng những dòng thơ khá hay. “Con thuyền bé, giờ đây trôi đi rồi em nờ...còn đâu nữa/ Tình duyên ta nay đã lỡ làng/ Bờ sông kia nay đã phũ phàng/ Và còn đâu những chiều hôm vắng/ Hai đứa ta bên nhau tâm tình/ Hai đứa ta hôn nhau...em cười”. Đặt cái từ địa phương “em nờ” đúng chỗ, đắc địa là giỏi lắm. Rồi cái cảnh cô thôn nữ ngây ngô Hai đứa ta hôn nhau, em cười thật sinh động. Nên nhớ, những năm sáu mươi, bảy mươi thế kỷ trước nói chuyện hôn hít, các cô gái quê còn đỏ mặt đấm thùm thụp vào lưng nhau .

   Lại nữa, không hỏi, tôi cũng biết, nghề dệt chiếu cói ở quê “nàng” đã chết, vì không địch lại với công nghệ sản xuất chiếu nhựa. Thảng hoặc, chỉ còn vài người già nhớ nghề nghiệp tổ phụ, lâu lâu dệt vài tấm cho con cháu mang lễ cho nhà gái, tỷ như phải có buồng cau mớ trầu dẫn lễ mà cả hai họ không còn ai biết “cau sáu bổ ba”nữa....

    Chuyện tình từ nửa cuối thế kỷ trước, nay kể lại, nghe man man như cổ tích. Cả lời kể của nhân chứng cũng hư hư thực thực, chả biết thế nào. Nhưng con sông kiến Giang thì nay vẫn còn đó, nhỏ, đẹp đến mức người Hà Nội đến chiêm ngắm còn khen là đẹp nhất từng thấy. Còn tôi, cứ ám ảnh một câu nói được lặp lại nhiều lần của ông: Sao nàng bỏ đi lấy chồng mà suốt gẩn nửa thế kỷ qua, tôi luôn thấy mình có lỗi, hả cậu?!

TÌNH KHÚC CHÂU Ô - Thơ Lý Hoài Xuân – Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình

Thơ Lý Hoài Xuân – Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 10/2020.

TÌNH KHÚC CHÂU Ô

Buổi chưa có tên riêng, đất Châu Ô có giống bây giờ?
Núi đã U Bò, sông đã thành Nhật Lệ?
Đèo đã Ngang, động đã Hạ Cờ?
Ôi Tổ quốc: nơi hẹp nhất - rừng soi mặt bể - đèo ngăn bước chân, sông cắt ruột gan!
Tôi sinh ra từ tim buồn của Mẹ, uống sữa buồn, ngủ giữa lời ru buồn; nghe bao chuyện buồn ông cha bạc tóc.
Rằng ở nơi đây có sông chảy dọc, có núi mọc ngang, có hang bí hiểm!
Đất trải nhiều cuộc chiến; số phận đất chung số phận người.
Người dũng cảm hơn một phần do bom đạn!
Người cần mẫn hơn một phần do khổ nghèo!
Phải vì khổ nghèo mà người làm thơ lắm?
Lắm nữ anh hùng vì lắm đạn bom?
Mảnh đất tôi yêu có nhiều gió nắng.
Tình người như lúa như khoai.
Điệu hò sinh ra từ những cánh đồng, từ các dòng sông, từ nơi cối gạo… Mỗi vùng có riêng giọng nói.
Cùng làng có tướng giặc tướng ta.
*
*     *
Thật khó quên những tháng năm bom pháo...
Nông dân quê tôi đội pháo đội bom đi cấy lúa trồng khoai.
Học sinh đội bom tới trường.
Công nhân đội bom vào xưởng máy.
Ngư dân cưỡi pháo đội bom bám biển đêm ngày…
Thật khó quên cái thời hợp đất!... “Nhập…” rồi “Tách…”; tỉnh chung…; tỉnh riêng…
Đất mất tên. Đất có thêm tên mới!
Cá tính con người cũng dần thay đổi!...
Nào ai bảo “chung nhà” không ý nghĩa, khi đất Châu Ô, Châu Rí, Thuận Hóa hợp hòa nhau?
Có tỉnh chung người Quảng Bình có thêm chất Huế, người Huế có thêm chất Quảng Bình.
Trai Quảng Trị vô Thừa Thiên ở rể.
Gái Đông Hà ra Quảng Bình làm dâu. Giọng Huế lẫn giọng Quảng Bình ngọt ngào, nhỏ nhẹ.
Trong cái “mất” có cái “được” không ngờ!
*
*     *
Những tháng năm xa cách Châu Ô, tôi mang theo “Quảng Bình quê ta ơi!” cùng “Bình Trị Thiên khói lửa” (*).
Bạn tôi thành anh hùng, tiến sĩ; tôi thành nhà thơ…
Nay trở về bên dòng Nhật Lệ, đọc lại “GÁI QUÊ” (**) càng nhớ thương Hàn Mặc Tử!
Ông và tôi sống cùng thế kỷ.
Tôi khó hiểu ông.
Ông không biết tôi…
Trong ông và tôi có phần hồn đất Thuận Hóa, Châu Ô!
Nhiều cô gái thời tôi thuộc thơ ông, ngâm trong đám cưới…
Ôi Châu Ô! Đất dẫu nghèo nhưng ý chí và tình người đầy như nước bể. Hãy thức dậy cùng ta đón bình minh mỗi sáng, đất ơi!

Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật nhận bằng khen của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Sáng 18/11, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết các hoạt động trọng điểm về văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí quân đội giai đoạn (2016 - 2020).

Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa - Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trưởng ban Chỉ đạo hoạt động trọng điểm về văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí Quân đội giai đoạn 2016 – 2020 chủ trì Hội nghị.

ttnhanbangkhentcct

Ông Nguyễn Song Hiển – Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham dự hội nghị và đã vinh dự đón nhận bằng khen của Tổng cục Chính trị tặng Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật vì đã có thành tích xuất sắc trong chỉ đạo, tổ chức, tham gia các hoạt động trọng điểm về văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí quân đội, giai đoạn 2016-2020.

Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật nhận bằng khen của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Sáng 18/11, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết các hoạt động trọng điểm về văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí quân đội giai đoạn (2016 - 2020).

Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa - Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trưởng ban Chỉ đạo hoạt động trọng điểm về văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí Quân đội giai đoạn 2016 – 2020 chủ trì Hội nghị.

ttnhanbangkhentcct

Ông Nguyễn Song Hiển – Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham dự hội nghị và đã vinh dự đón nhận bằng khen của Tổng cục Chính trị tặng Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật vì đã có thành tích xuất sắc trong chỉ đạo, tổ chức, tham gia các hoạt động trọng điểm về văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí quân đội, giai đoạn 2016-2020.

Chùm thơ Hoàng Vũ Thuật – Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình

Thơ Hoàng Vũ Thuật – Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 10/2020

TỘI PHẠM
Những thân cây tróc vỏ màu xỉn than
viết lên nền trời nhọ
lũ lâm tặc ngả nghiêng phòng lạnh
bên ly rượu mác ngoại vô thời hạn máu loang
 
các diễn đàn thi nhau kể lể về nỗi buồn rừng
tiếng thở khò khè hoang dã
bầy sóc nhanh chân chạy trốn
 
ngọn lửa khổng lồ lém vào vạt áo
một con báo người giữa những con báo người
nham nham nhở nhở
anh chưa thấy hay sao anh bạn
 
mùa xuân thút thít giã từ
viên đạn như xuyên qua tôi rạn từng miếng.
******
TRANG GIẤY TINH KHÔI
Trên trang giấy tinh khôi anh viết về tình yêu của em
hạnh phúc của em
cay đắng của em
cái nhìn của em
mái tóc cắt ngắn của em
anh còn viết mãi như mùa thu lần đầu hôn nhau
mặc người qua soi mói
 
anh viết ngày chết dần tiếng khóc cũng tan
anh viết một con cáo đen
một con rắn xấu xí
một quỷ thần ngự trị một ly nước khô một sự độc tâm
một giọng nói đã tắt một mong manh dễ vỡ
một tận cùng tuyệt vọng
đấy là nỗi khát khao cuộn sóng tim mình
 
anh viết
như vỏ ốc dạt lên bãi biển bạc phếch
như hồi chuông dài lịm tắt 
như duyên phận chẳng bao giờ đến cũng chẳng bao giờ đi
như năm tháng trôi
anh viết trong mỏi mòn cô đơn
trong vĩnh hằng cái chết trong nhận thức đêm dài
trong lửng thửng đàn nai ngơ ngác tên em
trong phục sinh thân hình nóng hổi
trong công viên một mình với cỏ hoa
 
anh sợ một ngày em rời bỏ anh
rời bỏ anh
nước rời bỏ đất mây rời bỏ trời xanh
như anh rời bỏ trang giấy trắng cuộc đời.

BẬT KHÓC - Thơ Đỗ Thành Đồng – Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình

Thơ Đỗ Thành Đồng – Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 10/2020.

BẬT KHÓC

Anh chẳng có gì
ngoài những câu thơ và ngôi nhà ảo
ngôi nhà vay mượn người ngoài
một thời cha anh đạp đổ
 
đất nước đang kỳ lụt lũ
thơ nào hóa được thánh kinh
những bài thơ vô thần
không thể gõ chuông tụng niệm
 
từng trận lụt mang hình ngạ quỷ
luân hồi từ lũ súc sinh
cõi người điêu linh
địa ngục nhắc nhở
 
anh ngước nhìn cõi trời mây phủ
đường xa tia chớp ngoằn nghèo
đêm miền Trung nóc nhà nín thở
mười ngón tay vô hồn
 
bàn phím bật khóc
bàn phím mây mưa
câu thơ lạy Chúa
câu thơ Nam Mô.

Kế hoạch tổ chức các Trại sáng tác của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tại các Nhà sáng tác trong tháng 11/2020

Trong tháng 11/2020, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức các Trại sáng tác tại các Nhà sáng tác trực thuộc trung tâm.

DANH SÁCH CÁC TRẠI DIỄN RA TRONG THÁNG 11 NĂM 2020

STT Tên Hội VHNT Địa điểm Khai mạc Bế mạc
TRẠI THƯỜNG NIÊN
1 Hội văn học nghệ thuật Kiên Giang Tam Đảo 1/11 15/11
2 Hội văn học nghệ thuật Đồng Nai Tam Đảo 18/11 02/12
3 Hội Nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam Đại Lải 12/11 22/11
4 Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam Đại Lải 26/11 02/12
5 Hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam Nha Trang 01/11 15/11
6 Hội văn học nghệ thuật Hải Dương Nha Trang 01/11 15/11
7 Hội Điện ảnh Việt Nam Nha Trang 23/11 02/12
8 Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ Vũng Tàu 02/11 16/11
9 Hội văn học nghệ thuật Trà Vinh Vũng Tàu 23/11 07/12
10 Hội văn học nghệ thuật Hưng Yên Đà Lạt 02/11 16/11
11 Hội văn học nghệ thuật Phú Yên Đà Lạt 18/11 03/12


I. Nhà sáng tác Tam Đảo:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT KIÊN GIANG
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC TAM ĐẢO
(01 - 15/11/2020)
(Quyết định số:246/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 07 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Hữu Định Nam Nhiếp ảnh 1977 Kinh
2 Trần Ngọc Thúy Nữ Văn học 1978 Kinh
3 Nguyễn Mỹ Hồng Nữ Văn học 1949 Kinh
4 Nguyễn Thanh Xuân Nữ Văn học 1953 Kinh
5 Lê Quang Hào Nam Văn học 1960 Kinh
6 Lê Phong Nhã Nam Âm nhạc 1971 Kinh
7 Nguyễn Đức Thịnh Nam Âm nhạc 1960 Kinh
8 Danh Hiệp Nam Nhiếp ảnh 1964 Khmer
9 Trương Anh Dũng Nam Nhiếp ảnh 1976 Kinh
10 Nguyễn Phong Vũ Nam Nhiếp ảnh 1981 Kinh
11 Phạm Nam Nhi Nam Sân khấu 1963 Kinh
12 Trần Thanh Thảo Nam Sân khấu 1971 Kinh
13 Nguyễn Văn Kiệt Nam Sân khấu 1985 Kinh
14 Vũ Huy Khôi Nam Mỹ thuật 1942 Kinh
15 Đoàn Thế Hạnh Nam VNDG 1977 Kinh
 
2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC TAM ĐẢO
(18/11 - 02/12/2020)
(Quyết định số:269 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 21 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Thái Hải Nam Văn học 1950 Kinh
2 Đào Sỹ Quang Nam Văn học 1954 Kinh
3 Bùi Quang Tú Nam Văn học 1948 Kinh
4 Phạm Thanh Quang Nam Văn học 1951 Kinh
5 Đàm Xuân Nhiệm (Đàm Chu Văn) Nam Văn học 1958 Kinh
6 Đỗ Minh Dơn (Đỗ Minh Dương) Nam Văn học 1948 Kinh
7 Trần Ngọc Tuấn Nam Văn học 1964 Kinh
8

Phạm Thị Hệ

(Minh Hạ)

Nữ Văn học 1953 Kinh
9 Nguyễn Đình Hoàng (Hoàng Đình Nguyễn) Nam Văn học 1947 Kinh
10 Nguyễn Hoài Nhơn Nam Văn học 1956 Kinh
11 Đoàn Quang Trung Nam Âm nhạc 1954 Kinh
12 Nguyễn Thị Đường (Thy Đường) Nữ Âm nhạc 1956 Kinh
13 Nguyễn Văn Bòn Nam Âm nhạc 1968 Kinh
14 Cao Hồng Sơn Nam Âm nhạc 1958 Kinh
15 Thái Minh Chánh (Trần Tâm) Nam Âm nhạc 1963 Kinh

II. Nhà sáng tác Đại Lải:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI NGHỆ SĨ SÂN KHẤU VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(12-22/11/2020)
(Quyết định số:270/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 21 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên              văn nghệ sỹ Giới tính Năm sinh Dân tộc Chuyên ngành
1 Nguyễn Toàn Thắng Nam 1977 Kinh Kịch hài dân gian
2 Trần Thị Kim Thanh Nữ 1960 Kinh Cải lương
3 Trịnh Quang Khanh Nam 1941 Kinh Chèo
4 Trần Thanh Hà Nam 1962 Kinh Kịch nói
5 Hoàng Thanh Du Nam 1960 Kinh Kịch nói
6 Phạm Xuân Đặng Nam 1951 Kinh Kịch nói
7 Đỗ An Ninh Nam 1954 Kinh Kịch thiếu nhi
8 Nguyễn Phụng Kỳ Nam 1951 Kinh Tuồng
9 Nguyễn Kháng Chiến Nam 1947 Kinh Kịch nói
10 Trần Đức Sìn Nam 1957 Kinh Kịch nói
11 Nguyễn Văn Tươi (Đăng Minh) Nam 1955 Kinh Kịch nói
12 Trương Thị Huyền (Nhi huyền) Nữ 1978 Kinh Kịch thiếu nhi
13 Lê Quý Hiền Nam 1953 Kinh Kịch nói
14 Nguyễn Thu Phương Nữ 1967 Kinh Kịch nói
15 Nguyễn Quý Hải Nam 1932 Kinh Kịch nói
16

Hà Thị Mỹ Dung

(Hà Nam Quang)

Nữ 1945 Kinh Cải lương
17 Lê Thế Dương Nam 1948 Kinh Kịch nói
2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI ÂM NHẠC HÀ NỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(ĐỢT 1: 23-29/10/2020)
(Quyết định số:255/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 13 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên         văn nghệ sỹ Giới tính Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Lân Cường Nam 1941 Kinh
2 Bùi Việt Hà Nữ 1992 Kinh
3 Lê Tiến Hoành Nam 1949 Kinh
4 Nguyễn Thái Hà Nam 1952 Kinh
5 Nguyễn Văn Bình Nam 1980 Kinh
6 Hồ Trọng Tuấn Nam 1970 Kinh
7 Phi Cẩm Thúy Nữ 1959 Kinh
8 Vũ Hùng Nam 1952 Kinh
9 Bùi Huy Thông Nam 1945 Kinh
10 Nguyễn Đức Giao Nam 1958 Kinh
11 Quách Thái Kỳ Nam 1940 Kinh
12 Lê Minh Tuân Nam 1952 Kinh
13 Trần Miêu Nam 1962 Kinh
14 Đặng Tài Tuệ Nam 1955 Kinh
15 Cát Văn Vận Nam 1940 Kinh

III. Nhà sáng tác Nha Trang:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VHNT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(01 - 15/11/2020)
( Quyết định số:244/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 06 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Phạm Quỳnh Loan Nữ Văn học 1965 Kinh
2 Nguyễn Thị Kim Thu Nữ Văn học 1951 Kinh
3 Triệu Thị Mai Nữ VNDG 1957 Tày
4 Chu Triều Đương Nam Nhiếp ảnh 1954 Dao
5 Trần Hoa Nam Mỹ thuật 1960 Kinh
6 Phạm Thanh Sơn Nam Âm nhạc 1967 Kinh
7 Trúc Linh Lan Nữ Văn học 1953 Khmer
8 Trần Thái Hồng Nữ Văn học 1960 Hoa
9 Trần Hồng Lâm Nữ Mỹ thuật 1962 Khmer
10 Ma Phương Tân Nam Văn học 1958 Tày
11 Lê Vạn Quỳnh Nam Văn học 1951 Kinh
12 Nguyễn Đức Thủy Nam Nhiếp ảnh 1967 Kinh
13 Nguyễn Văn Bình Nam Văn học 1953 Kinh
14 Hoàng Kim Dung Nữ Văn học 1956 Tày
15 Lương Định Nam Văn học 1957 Tày

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HẢI DƯƠNG
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(01 - 15/11/2020)
(Quyết định số:245/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 06 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Trương Thị Thương Huyền Nữ Văn học (LLPB) 1973 Kinh
2 Trần Thị Xuyến Nữ Văn học (LLPB) 1977 Kinh
3 Phạm Thị Kim Nữ Kiến trúc 1955 Kinh
4 Nguyễn Phương Liên Nữ Kiến trúc 1954 Kinh
5 Nguyễn Thanh Cải Nam Văn học (Văn xuôi) 1959 Kinh
6 Đinh Ngọc Hùng Nam Văn học (Văn xuôi) 1975 Kinh
7 Phạm Thị Đoan Nữ Âm nhạc 1952 Kinh
8 Lê Thị Dự Nữ VNDG 1955 Kinh
9 Nguyễn Tiến Quân Nam Mỹ thuật 1978 Kinh
10 Đặng Việt Cường Nam Mỹ thuật 1961 Kinh
11 Đỗ Đức Khải Nam Mỹ thuật 1960 Kinh
12 Phạm Văn Trọng Nam Mỹ thuật 1981 Kinh
13 Vũ Văn Tuấn Nam Nhiếp ảnh 1962 Kinh

3. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(23/11/2020 - 02/12/2020)
(Quyết định số:271 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 21 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Bùi Xuân Thảo Nam Phim truyện 1955 Kinh
2 Tống Thị Phương Dung Nữ Phim truyện 1982 Kinh
3 Nguyễn Anh Tuấn Nam Phim truyện 1974 Kinh
4 Trần Thị Thanh Nhã Nữ Phim truyện 1958 Kinh
5 Đặng Thu Trang Nữ Phim truyện 1981 Kinh
6 Trần Phi Nam Phim truyện 1954 Kinh
7 Bành Thị Mai Phương Nữ Phim truyện 1956 Kinh
8 Đinh Văn Phúc Nam Phim truyện 1955 Kinh
9 Phạm Nhuệ Giang Nữ Phim truyện 1957 Kinh
10 Nguyễn Thị Thanh Loan Nữ Phim tài liệu 1951 Kinh
11 Nguyễn Thu Dung Nữ Phim tài liệu 1972 Kinh
12 Đỗ Khánh Toàn Nam Phim tài liệu 1949 Kinh
13 Nguyễn Hà Bắc Nam Phim HH 1957 Kinh
14 Nguyễn Thị Phương Hoa Nữ Phim HH 1957 Kinh
15 Nguyễn Thế Vinh Nam Phim HH 1985 Kinh
16 Phạm Thị Sông Thu Nữ Phim HH 1961 Kinh
17 Lý Thu Hà Nữ Phim HH 1957 Kinh
18 Đoàn Minh Anh Nữ Phim HH 1976 Kinh
19 Trần Quang Minh Nam Nghiên cứu 1971 Kinh
20 Bùi Thị Hồng Gấm Nữ Nghiên cứu 1976 Kinh

IV. Nhà sáng tác Đà Lạt:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HƯNG YÊN
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(02/11/2020 - 16/11/2020)
(Quyết định số:133/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 25 tháng 5 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Chu Huy Phương Nam Nhiếp ảnh 1975 Kinh
2 Bùi Minh Hải Nam Nhiếp ảnh 1983 Kinh
3

Phạm Ngọc Quang

(Vinh Quang)

Nam Nhiếp ảnh 1959 Kinh
4 Nguyễn Quốc Bằng (Thanh Bằng) Nam Nhiếp ảnh 1958 Kinh
5 Nguyễn Thị Hải Nữ Nhiếp ảnh 1972 Kinh
6 Phạm Thế Vững Nam Văn học 1944 Kinh
7 Hồ Ngọc Vinh Nam Văn học 1958 Kinh
8 Trần Ngọc Anh Nam Sân khấu 1963 Kinh
9 Nguyễn Công Đản Nam VNDG 1962 Kinh
10 Nguyễn Trường Sinh Nam Văn học 1945 Kinh
11 Vũ Lập Nữ Văn học 1946 Kinh
12 Nguyễn Văn Thích Nam Văn học 1950 Kinh
13 Nguyễn Văn Diên Nam Văn học 1953 Kinh
14 Trần Mạnh Tuấn Nam Âm nhạc 1957 Kinh
15 Dương Tiến Đức Nam Âm nhạc 1953 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PHÚ YÊN
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(18/11/2020 - 03/11/2020)
(Quyết định số:285/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 09 tháng 11 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Thanh Thảo Nam Nhiếp ảnh 1963 Kinh
2 Lê Hồng Nguyễn Nam Nhiếp ảnh 1970 Kinh
3 Nguyễn Thế Phong Nam Nhiếp ảnh 1972 Kinh
4 Trương Quốc Mỹ Nam Mỹ thuật 1982 Kinh
5 Huỳnh Ngọc Minh Nam Mỹ thuật 1963 Kinh
6 C Pă y Tý Nam Mỹ thuật 1984 Ê đê
7 Nguyễn Lưu Phúc Nam Văn học 1955 Kinh
8 Lê Tấn Nghĩa Nam Văn học 1956 Kinh
9 Huỳnh Văn Quốc Nam Văn học 1970 Kinh
10 Nguyễn Thị Thu Trang Nữ Văn học 1964 Kinh
11 Trịnh Thị Phương Trà Nữ Văn học 1976 Kinh
12 Trình Thị Liên Nữ Sân khấu 1967 Kinh
13 Hứa Thị Gởi Nữ Sân khấu 1972 Kinh
14 Cao Hữu Nhạc Nam Âm nhạc 1957 Kinh
15 Huỳnh Tấn Phát Nam Âm nhạc 1966 Kinh

V. Nhà sáng tác Vũng Tàu:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PHÚ THỌ
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(02-16/11/2020)
(Quyết định số:250/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 12 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Đỗ Thu Quân Nam Văn học (văn xuôi) 1961 Kinh
2 Bùi Thuần Mỹ Nam Văn học (văn xuôi) 1956 Kinh
3 Nguyễn Đình Phúc Nam Văn học (Thơ) 1951 Kinh
4 Vũ Thị Kim Liên Nữ Văn học (Thơ) 1966 Kinh
5 Nguyễn Xuân Đạt Nam Văn học (Thơ) 1952 Kinh
6 Nguyễn Ngọc Khuê Nam Văn học (Thơ) 1955 Kinh
7 Nguyễn Khắc Bình Nam Văn học (Thơ) 1953 Kinh
8 Nguyễn Văn Sản Nam VHDG 1956 Kinh
9 Nguyễn Anh Dũng Nam Âm nhạc 1981 Kinh
10 Lê Quang Vũ Nam Âm nhạc 1955 Kinh
11 Nguyễn Văn Lợi Nam Mỹ thuật 1951 Kinh
12 Hoàng Thị Chiến Nữ Mỹ thuật 1961 Cao Lan
13 Nguyễn Văn Đạo Nam Mỹ thuật 1959 Kinh
14 Đỗ Xuân Thu Nam VHDTTS 1957 Kinh
15 Đắc Phượng Nữ Nhiếp ảnh 1961 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TRÀ VINH
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(23/11/2020 - 07/12/2020)
(Quyết định số:256/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 13 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Trần Văn Dũng Nam Văn học 1962 Kinh
2 Nguyễn Trọng Nghĩa Nam Sân khấu 1984 Kinh
3 Ngô Nguyễn Xuân Tuyền Nữ Văn học 1981 Kinh
4 Nguyễn Thị Mây Nữ Văn học 1953 Kinh
5 Lê Văn Trường Nam Văn học 1975 Kinh
6 Nguyễn Văn Hiếu Nam Văn học 1977 Kinh
7 Nguyễn Thành Bảy Nam Âm nhạc 1961 Kinh
8 Bùi Thị Lê Thủy Nữ Âm nhạc 1970 Kinh
9 Trương Hoàng Minh Nam Âm nhạc 1983 Kinh
10 Dương Văn Hưởng Nam Nhiếp ảnh 1964 Kinh
11 Dương Văn Mãi Nam Nhiếp ảnh 1965 Kinh
12 Thạch Sết Nam VHDG 1952 Khmer
13 Trần Văn Đài Nam VHDG 1979 Khmer
14 Ngô Văn Tường Nam VHDG 1968 Kinh
15 Trần Ngọc Kim Thanh Nữ Sân khấu 1975 Kinh

Kế hoạch tổ chức các Trại sáng tác của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tại các Nhà sáng tác trong tháng 11/2020

Trong tháng 11/2020, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức các Trại sáng tác tại các Nhà sáng tác trực thuộc trung tâm.

DANH SÁCH CÁC TRẠI DIỄN RA TRONG THÁNG 11 NĂM 2020

STT Tên Hội VHNT Địa điểm Khai mạc Bế mạc
TRẠI THƯỜNG NIÊN
1 Hội văn học nghệ thuật Kiên Giang Tam Đảo 1/11 15/11
2 Hội văn học nghệ thuật Đồng Nai Tam Đảo 18/11 02/12
3 Hội Nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam Đại Lải 12/11 22/11
4 Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam Đại Lải 26/11 02/12
5 Hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam Nha Trang 01/11 15/11
6 Hội văn học nghệ thuật Hải Dương Nha Trang 01/11 15/11
7 Hội Điện ảnh Việt Nam Nha Trang 23/11 02/12
8 Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ Vũng Tàu 02/11 16/11
9 Hội văn học nghệ thuật Trà Vinh Vũng Tàu 23/11 07/12
10 Hội văn học nghệ thuật Hưng Yên Đà Lạt 02/11 16/11
11 Hội văn học nghệ thuật Phú Yên Đà Lạt 18/11 03/12


I. Nhà sáng tác Tam Đảo:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT KIÊN GIANG
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC TAM ĐẢO
(01 - 15/11/2020)
(Quyết định số:246/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 07 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Hữu Định Nam Nhiếp ảnh 1977 Kinh
2 Trần Ngọc Thúy Nữ Văn học 1978 Kinh
3 Nguyễn Mỹ Hồng Nữ Văn học 1949 Kinh
4 Nguyễn Thanh Xuân Nữ Văn học 1953 Kinh
5 Lê Quang Hào Nam Văn học 1960 Kinh
6 Lê Phong Nhã Nam Âm nhạc 1971 Kinh
7 Nguyễn Đức Thịnh Nam Âm nhạc 1960 Kinh
8 Danh Hiệp Nam Nhiếp ảnh 1964 Khmer
9 Trương Anh Dũng Nam Nhiếp ảnh 1976 Kinh
10 Nguyễn Phong Vũ Nam Nhiếp ảnh 1981 Kinh
11 Phạm Nam Nhi Nam Sân khấu 1963 Kinh
12 Trần Thanh Thảo Nam Sân khấu 1971 Kinh
13 Nguyễn Văn Kiệt Nam Sân khấu 1985 Kinh
14 Vũ Huy Khôi Nam Mỹ thuật 1942 Kinh
15 Đoàn Thế Hạnh Nam VNDG 1977 Kinh
 
2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC TAM ĐẢO
(18/11 - 02/12/2020)
(Quyết định số:269 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 21 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Thái Hải Nam Văn học 1950 Kinh
2 Đào Sỹ Quang Nam Văn học 1954 Kinh
3 Bùi Quang Tú Nam Văn học 1948 Kinh
4 Phạm Thanh Quang Nam Văn học 1951 Kinh
5 Đàm Xuân Nhiệm (Đàm Chu Văn) Nam Văn học 1958 Kinh
6 Đỗ Minh Dơn (Đỗ Minh Dương) Nam Văn học 1948 Kinh
7 Trần Ngọc Tuấn Nam Văn học 1964 Kinh
8

Phạm Thị Hệ

(Minh Hạ)

Nữ Văn học 1953 Kinh
9 Nguyễn Đình Hoàng (Hoàng Đình Nguyễn) Nam Văn học 1947 Kinh
10 Nguyễn Hoài Nhơn Nam Văn học 1956 Kinh
11 Đoàn Quang Trung Nam Âm nhạc 1954 Kinh
12 Nguyễn Thị Đường (Thy Đường) Nữ Âm nhạc 1956 Kinh
13 Nguyễn Văn Bòn Nam Âm nhạc 1968 Kinh
14 Cao Hồng Sơn Nam Âm nhạc 1958 Kinh
15 Thái Minh Chánh (Trần Tâm) Nam Âm nhạc 1963 Kinh

II. Nhà sáng tác Đại Lải:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI NGHỆ SĨ SÂN KHẤU VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(12-22/11/2020)
(Quyết định số:270/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 21 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên              văn nghệ sỹ Giới tính Năm sinh Dân tộc Chuyên ngành
1 Nguyễn Toàn Thắng Nam 1977 Kinh Kịch hài dân gian
2 Trần Thị Kim Thanh Nữ 1960 Kinh Cải lương
3 Trịnh Quang Khanh Nam 1941 Kinh Chèo
4 Trần Thanh Hà Nam 1962 Kinh Kịch nói
5 Hoàng Thanh Du Nam 1960 Kinh Kịch nói
6 Phạm Xuân Đặng Nam 1951 Kinh Kịch nói
7 Đỗ An Ninh Nam 1954 Kinh Kịch thiếu nhi
8 Nguyễn Phụng Kỳ Nam 1951 Kinh Tuồng
9 Nguyễn Kháng Chiến Nam 1947 Kinh Kịch nói
10 Trần Đức Sìn Nam 1957 Kinh Kịch nói
11 Nguyễn Văn Tươi (Đăng Minh) Nam 1955 Kinh Kịch nói
12 Trương Thị Huyền (Nhi huyền) Nữ 1978 Kinh Kịch thiếu nhi
13 Lê Quý Hiền Nam 1953 Kinh Kịch nói
14 Nguyễn Thu Phương Nữ 1967 Kinh Kịch nói
15 Nguyễn Quý Hải Nam 1932 Kinh Kịch nói
16

Hà Thị Mỹ Dung

(Hà Nam Quang)

Nữ 1945 Kinh Cải lương
17 Lê Thế Dương Nam 1948 Kinh Kịch nói
2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI ÂM NHẠC HÀ NỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(ĐỢT 1: 23-29/10/2020)
(Quyết định số:255/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 13 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên         văn nghệ sỹ Giới tính Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Lân Cường Nam 1941 Kinh
2 Bùi Việt Hà Nữ 1992 Kinh
3 Lê Tiến Hoành Nam 1949 Kinh
4 Nguyễn Thái Hà Nam 1952 Kinh
5 Nguyễn Văn Bình Nam 1980 Kinh
6 Hồ Trọng Tuấn Nam 1970 Kinh
7 Phi Cẩm Thúy Nữ 1959 Kinh
8 Vũ Hùng Nam 1952 Kinh
9 Bùi Huy Thông Nam 1945 Kinh
10 Nguyễn Đức Giao Nam 1958 Kinh
11 Quách Thái Kỳ Nam 1940 Kinh
12 Lê Minh Tuân Nam 1952 Kinh
13 Trần Miêu Nam 1962 Kinh
14 Đặng Tài Tuệ Nam 1955 Kinh
15 Cát Văn Vận Nam 1940 Kinh

III. Nhà sáng tác Nha Trang:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VHNT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(01 - 15/11/2020)
( Quyết định số:244/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 06 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Phạm Quỳnh Loan Nữ Văn học 1965 Kinh
2 Nguyễn Thị Kim Thu Nữ Văn học 1951 Kinh
3 Triệu Thị Mai Nữ VNDG 1957 Tày
4 Chu Triều Đương Nam Nhiếp ảnh 1954 Dao
5 Trần Hoa Nam Mỹ thuật 1960 Kinh
6 Phạm Thanh Sơn Nam Âm nhạc 1967 Kinh
7 Trúc Linh Lan Nữ Văn học 1953 Khmer
8 Trần Thái Hồng Nữ Văn học 1960 Hoa
9 Trần Hồng Lâm Nữ Mỹ thuật 1962 Khmer
10 Ma Phương Tân Nam Văn học 1958 Tày
11 Lê Vạn Quỳnh Nam Văn học 1951 Kinh
12 Nguyễn Đức Thủy Nam Nhiếp ảnh 1967 Kinh
13 Nguyễn Văn Bình Nam Văn học 1953 Kinh
14 Hoàng Kim Dung Nữ Văn học 1956 Tày
15 Lương Định Nam Văn học 1957 Tày

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HẢI DƯƠNG
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(01 - 15/11/2020)
(Quyết định số:245/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 06 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Trương Thị Thương Huyền Nữ Văn học (LLPB) 1973 Kinh
2 Trần Thị Xuyến Nữ Văn học (LLPB) 1977 Kinh
3 Phạm Thị Kim Nữ Kiến trúc 1955 Kinh
4 Nguyễn Phương Liên Nữ Kiến trúc 1954 Kinh
5 Nguyễn Thanh Cải Nam Văn học (Văn xuôi) 1959 Kinh
6 Đinh Ngọc Hùng Nam Văn học (Văn xuôi) 1975 Kinh
7 Phạm Thị Đoan Nữ Âm nhạc 1952 Kinh
8 Lê Thị Dự Nữ VNDG 1955 Kinh
9 Nguyễn Tiến Quân Nam Mỹ thuật 1978 Kinh
10 Đặng Việt Cường Nam Mỹ thuật 1961 Kinh
11 Đỗ Đức Khải Nam Mỹ thuật 1960 Kinh
12 Phạm Văn Trọng Nam Mỹ thuật 1981 Kinh
13 Vũ Văn Tuấn Nam Nhiếp ảnh 1962 Kinh

3. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(23/11/2020 - 02/12/2020)
(Quyết định số:271 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 21 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Bùi Xuân Thảo Nam Phim truyện 1955 Kinh
2 Tống Thị Phương Dung Nữ Phim truyện 1982 Kinh
3 Nguyễn Anh Tuấn Nam Phim truyện 1974 Kinh
4 Trần Thị Thanh Nhã Nữ Phim truyện 1958 Kinh
5 Đặng Thu Trang Nữ Phim truyện 1981 Kinh
6 Trần Phi Nam Phim truyện 1954 Kinh
7 Bành Thị Mai Phương Nữ Phim truyện 1956 Kinh
8 Đinh Văn Phúc Nam Phim truyện 1955 Kinh
9 Phạm Nhuệ Giang Nữ Phim truyện 1957 Kinh
10 Nguyễn Thị Thanh Loan Nữ Phim tài liệu 1951 Kinh
11 Nguyễn Thu Dung Nữ Phim tài liệu 1972 Kinh
12 Đỗ Khánh Toàn Nam Phim tài liệu 1949 Kinh
13 Nguyễn Hà Bắc Nam Phim HH 1957 Kinh
14 Nguyễn Thị Phương Hoa Nữ Phim HH 1957 Kinh
15 Nguyễn Thế Vinh Nam Phim HH 1985 Kinh
16 Phạm Thị Sông Thu Nữ Phim HH 1961 Kinh
17 Lý Thu Hà Nữ Phim HH 1957 Kinh
18 Đoàn Minh Anh Nữ Phim HH 1976 Kinh
19 Trần Quang Minh Nam Nghiên cứu 1971 Kinh
20 Bùi Thị Hồng Gấm Nữ Nghiên cứu 1976 Kinh

IV. Nhà sáng tác Đà Lạt:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HƯNG YÊN
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(02/11/2020 - 16/11/2020)
(Quyết định số:133/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 25 tháng 5 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Chu Huy Phương Nam Nhiếp ảnh 1975 Kinh
2 Bùi Minh Hải Nam Nhiếp ảnh 1983 Kinh
3

Phạm Ngọc Quang

(Vinh Quang)

Nam Nhiếp ảnh 1959 Kinh
4 Nguyễn Quốc Bằng (Thanh Bằng) Nam Nhiếp ảnh 1958 Kinh
5 Nguyễn Thị Hải Nữ Nhiếp ảnh 1972 Kinh
6 Phạm Thế Vững Nam Văn học 1944 Kinh
7 Hồ Ngọc Vinh Nam Văn học 1958 Kinh
8 Trần Ngọc Anh Nam Sân khấu 1963 Kinh
9 Nguyễn Công Đản Nam VNDG 1962 Kinh
10 Nguyễn Trường Sinh Nam Văn học 1945 Kinh
11 Vũ Lập Nữ Văn học 1946 Kinh
12 Nguyễn Văn Thích Nam Văn học 1950 Kinh
13 Nguyễn Văn Diên Nam Văn học 1953 Kinh
14 Trần Mạnh Tuấn Nam Âm nhạc 1957 Kinh
15 Dương Tiến Đức Nam Âm nhạc 1953 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PHÚ YÊN
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(18/11/2020 - 03/11/2020)
(Quyết định số:285/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 09 tháng 11 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Thanh Thảo Nam Nhiếp ảnh 1963 Kinh
2 Lê Hồng Nguyễn Nam Nhiếp ảnh 1970 Kinh
3 Nguyễn Thế Phong Nam Nhiếp ảnh 1972 Kinh
4 Trương Quốc Mỹ Nam Mỹ thuật 1982 Kinh
5 Huỳnh Ngọc Minh Nam Mỹ thuật 1963 Kinh
6 C Pă y Tý Nam Mỹ thuật 1984 Ê đê
7 Nguyễn Lưu Phúc Nam Văn học 1955 Kinh
8 Lê Tấn Nghĩa Nam Văn học 1956 Kinh
9 Huỳnh Văn Quốc Nam Văn học 1970 Kinh
10 Nguyễn Thị Thu Trang Nữ Văn học 1964 Kinh
11 Trịnh Thị Phương Trà Nữ Văn học 1976 Kinh
12 Trình Thị Liên Nữ Sân khấu 1967 Kinh
13 Hứa Thị Gởi Nữ Sân khấu 1972 Kinh
14 Cao Hữu Nhạc Nam Âm nhạc 1957 Kinh
15 Huỳnh Tấn Phát Nam Âm nhạc 1966 Kinh

V. Nhà sáng tác Vũng Tàu:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PHÚ THỌ
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(02-16/11/2020)
(Quyết định số:250/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 12 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên               văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Đỗ Thu Quân Nam Văn học (văn xuôi) 1961 Kinh
2 Bùi Thuần Mỹ Nam Văn học (văn xuôi) 1956 Kinh
3 Nguyễn Đình Phúc Nam Văn học (Thơ) 1951 Kinh
4 Vũ Thị Kim Liên Nữ Văn học (Thơ) 1966 Kinh
5 Nguyễn Xuân Đạt Nam Văn học (Thơ) 1952 Kinh
6 Nguyễn Ngọc Khuê Nam Văn học (Thơ) 1955 Kinh
7 Nguyễn Khắc Bình Nam Văn học (Thơ) 1953 Kinh
8 Nguyễn Văn Sản Nam VHDG 1956 Kinh
9 Nguyễn Anh Dũng Nam Âm nhạc 1981 Kinh
10 Lê Quang Vũ Nam Âm nhạc 1955 Kinh
11 Nguyễn Văn Lợi Nam Mỹ thuật 1951 Kinh
12 Hoàng Thị Chiến Nữ Mỹ thuật 1961 Cao Lan
13 Nguyễn Văn Đạo Nam Mỹ thuật 1959 Kinh
14 Đỗ Xuân Thu Nam VHDTTS 1957 Kinh
15 Đắc Phượng Nữ Nhiếp ảnh 1961 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TRÀ VINH
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(23/11/2020 - 07/12/2020)
(Quyết định số:256/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 13 tháng 10 năm 2020)

STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Trần Văn Dũng Nam Văn học 1962 Kinh
2 Nguyễn Trọng Nghĩa Nam Sân khấu 1984 Kinh
3 Ngô Nguyễn Xuân Tuyền Nữ Văn học 1981 Kinh
4 Nguyễn Thị Mây Nữ Văn học 1953 Kinh
5 Lê Văn Trường Nam Văn học 1975 Kinh
6 Nguyễn Văn Hiếu Nam Văn học 1977 Kinh
7 Nguyễn Thành Bảy Nam Âm nhạc 1961 Kinh
8 Bùi Thị Lê Thủy Nữ Âm nhạc 1970 Kinh
9 Trương Hoàng Minh Nam Âm nhạc 1983 Kinh
10 Dương Văn Hưởng Nam Nhiếp ảnh 1964 Kinh
11 Dương Văn Mãi Nam Nhiếp ảnh 1965 Kinh
12 Thạch Sết Nam VHDG 1952 Khmer
13 Trần Văn Đài Nam VHDG 1979 Khmer
14 Ngô Văn Tường Nam VHDG 1968 Kinh
15 Trần Ngọc Kim Thanh Nữ Sân khấu 1975 Kinh

Bế mạc trại sáng tác văn học nghệ thuật Bắc Ninh tại Đà Lạt

Ngày 1/11/2020, Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức bế mạc trại sáng tác văn học nghệ thuật tại Nhà sáng tác Đà Lạt. 

bemacbacninht11 2020

Buổi bế mạc có sự tham dự của Nhà báo Ngô Hồng Giang – Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Bắc Ninh; Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Sáu - Phó Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân; Nghệ sĩ nhiếp ảnh Hà Hữu Nết - Phó Chủ tịch Hội văn học Nghệ thuật Lâm Đồng; ông Võ Văn Quốc Bình – Giám đốc Nhà sáng tác Đà Lạt; đại diện Hội đồng hương Kinh Bắc tại Đà Lạt cùng các văn nghệ sĩ tham dự trại.

Tại buổi bế mạc, nhiều bài thơ đã được ngâm đọc, nhiều làn điệu dân ca quan họ đã được hát lên; trong đó, chất chứa hơi thở và mạch nguồn văn hóa sông Cầu “nước chảy lơ thơ” hoà quyện vào gió, vào hoa đã được các văn nghệ sĩ trình bày bằng tình cảm dạt dào dành cho Đà Lạt. 

Trong 15 ngày diễn ra trại sáng tác, bằng tinh thần lao động sáng tạo đầy trách nhiệm, các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhạc sĩ, ca sĩ đến từ quê hương quan họ đã sáng tác được 62 tác phẩm đủ các thể loại truyện ngắn, bút ký văn học, tản văn, thơ, ca khúc, tranh, ảnh nghệ thuật. Mảnh đất, con người Đà Lạt tươi đẹp, nhân văn đã mang đến cho các văn nghệ sĩ Kinh Bắc nhiều cảm xúc được gửi gắm vào 39 tác phẩm; đặc biệt, các nghệ sĩ nhiếp ảnh đã có những khám phá mới với các góc máy độc đáo về Đà Lạt. 

Tiêu biểu như các tác phẩm: Chùm thơ về Đà Lạt (Thành Hương, Đặng Thế Du), Tín ngưỡng thờ mẫu (Đỗ Văn Phong), Cưới vợ cho chồng (Nguyễn Viết Tại), Giấc mơ Tây Nguyên (Minh Châu), Trên đỉnh Lang Bian, Đà Lạt bốn mùa (Thái Khoát), Phác thảo thơ, Người Bắc Ninh ở Lâm Đồng (Vũ Tuấn Anh), Tôi là một liền chị (Tố Quyên), Đường về cõi Phật (Xuân Cương), Trầu cánh phượng và nghi thức mời trầu của người quan họ (Ánh Tuyết), Hoài niệm (Ngọc Bính)… Đó là thành quả của quá trình lao động sáng tạo nghiêm túc, thể hiện trách nhiệm công dân - văn nghệ sĩ, qua đó đã khẳng định chất lượng của các tác phẩm sáng tác từ trại viết.

Nhà văn Ngô Hồng Giang - Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Bắc Ninh cho biết: Trong chuyến sáng tác, Hội đã cùng phối hợp tổ chức triển lãm ảnh nghệ thuật Bắc Ninh - Phú Yên tại Tuy Hòa, giao lưu văn nghệ với Hội đồng hương Kinh Bắc và CLB dân ca quan họ tại Nam Ban (Lâm Hà). Trại sáng tác còn là dịp để các văn nghệ sĩ Bắc Ninh được giao lưu, gặp gỡ nhà văn, nhà thơ đến từ các tỉnh thành trong cả nước đang tham dự trại sáng tác về đề tài “Chiến tranh, cách mạng” ở Đà Lạt do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân tổ chức. Từ đó, cùng nhau trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, học hỏi lẫn nhau kỹ năng sáng tác, trau dồi vốn sống, cùng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung và tư tưởng, nghệ thuật.

bemacbacninht11 2020 1

Ông Võ Văn Quốc Bình thay mặt Nhà sáng tác Đà Lạt đã có lời chúc mừng các văn nghệ sỹ Bắc Ninh với một kỳ trại thành công. Ông hy vọng các văn nghệ sỹ đã có được nhiều kỷ niệm tốt đẹp với mảnh đất Đà Lạt, và những tư liệu trong những ngày ở trại sáng tác sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng để các văn nghệ sỹ có thêm được nhiều tác phẩm mới. 

Nhiều tác phẩm chất lượng tại trại sáng tác văn học đề tài “Lực lượng vũ trang-Chiến tranh cách mạng” năm 2020

Ngày 2/11/2020, tại Nhà sáng tác Đà Lạt, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân và Trung tâm hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật đã tổ chức bế mạc trại sáng tác văn học đề tài “Lực lượng vũ trang-Chiến tranh cách mạng” năm 2020.

Dự bế mạc có Đại tá Nguyễn Văn Sáu – Phó giám đốc – Phó Tổng Biên tập Nhà xuất bản QĐND; Ông Võ Văn Quốc Bình - Giám đốc Nhà sáng tác Đà lạt; Ông Hà Hữu Nết - Phó chủ tịch Hội VHNT tỉnh Lâm Đồng; đại diện của Học viện Lục quân; đại diện Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng; bên cạnh đó còn có đại diện một số báo đài như báo QĐND tại Lâm Đồng, báo Nhân dân tại Lâm Đồng, báo Lâm Đồng, đài PTTH tỉnh Lâm Đồng cùng 15 VNS tham gia dự Trại sáng tác.

bemacnxbqdndt10 2020

Sau 15 ngày diễn ra sôi nổi, trại sáng tác đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp, bảo đảm an toàn tuyệt đối về mọi mặt. Bằng tâm huyết và lao động sáng tạo, 15 trại viên gồm các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu đã cho ra đời 16 bản thảo tương đối hoàn chỉnh, trong đó có 10 tiểu thuyết, 1 trường ca, 2 tập bút ký và truyện ký, 3 tập nghiên cứu phê bình văn học, 2 đề cương tiểu thuyết, tiêu biểu như: Tiểu thuyết “Hòa giải” của nhà văn Hà Đình Cẩn, tiểu thuyết “Người mẹ và cánh rừng” của của nhà văn Châu La Việt, trường ca “Những ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc” của nhà thơ Hoàng Quý, tiểu luận phê bình văn học “Những tượng đài và hiện tượng văn chương” của nhà nghiên cứu Trần Đăng Xuyền…

bemacnxbqdndt10 2020 1

Cùng với hoạt động hỗ trợ sáng tác, ban tổ chức đã tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa như: Thăm các cơ sở sản xuất, đơn vị quân đội; giao lưu, tọa đàm văn học với các nhà văn, nhà thơ thuộc Hội văn học nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng và đoàn văn nghệ sĩ tỉnh Bắc Ninh bàn về “Văn học nghệ thuật với đời sống hiện nay. Làm thế nào để văn học viết về lực lượng vũ trang-chiến tranh cách mạng luôn là đề tài lớn, hấp dẫn bạn đọc”…

 

Subscribe to this RSS feed

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - TRUNG TÂM HỖ TRỢ SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUÂT
Địa chỉ : 1A Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại : 04 39.745.763
Bản quyền thuộc về Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác VHNT. Yêu cầu trích nguồn khi đăng tải nội dung từ trang web này