BÀI VIẾT MỚI

Minh Phương

Minh Phương

Bế mạc Trại sáng tác mỹ thuật đề tài 'Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng'

Sáng 18/5/2022, tại Nhà sáng tác Nha Trang, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tổ chức bế mạc Trại sáng tác mỹ thuật với đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng" năm 2022.

Đây là trại sáng tác thứ 2 trong khuôn khổ Cuộc vận động sáng tác mỹ thuật về đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng giai đoạn 2021-2025", quy tụ 15 họa sĩ trong và ngoài Quân đội, đến từ 3 miền Bắc - Trung - Nam. 

bemacbtlsqsvnt5 2022

Sau nửa tháng tham gia trại, các họa sĩ đã sáng tác 30 tác phẩm gồm tranh sơn dầu, acrylic, sơn mài... thể hiện nhiều ý tưởng trong sáng tạo hình tượng nghệ thuật, với hình thức ngôn ngữ biểu đạt phong phú, bám sát định hướng chủ đề, nội dung sáng tác đặt ra. Nhiều tác phẩm đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ hôm nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.

Phát biểu bế mạc Trại sáng tác, Thượng tá Lê Vũ Huy, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam - Trưởng ban Tổ chức Trại nhấn mạnh: Trại sáng tác mỹ thuật với đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng" đã trở thành mô hình sáng tạo, là nơi ươm mầm tài năng, phát triển ý tưởng cho giới họa sĩ trong lực lượng Quân đội nói riêng, họa sĩ cả nước nói chung, bao gồm nhiều thế hệ và của cả ba miền.

Nhiều tác phẩm đã thể hiện góc nhìn mới như: "Chiến hạm của họa sĩ Nguyễn Thị Tuyết, "Bảo dưỡng phao hàng hải" của họa sĩ Lê Duy Khanh, "Chiều trên hạm" của họa sĩ Nguyễn Thị Hải Nhung, "Lính đảo" của họa sĩ Hồ Minh Quân, "Miền biên thùy" của họa sĩ Nguyễn Văn Hoàn...

bemacbtlsqsvnt5 2022 1

Các họa sĩ được Ban tổ chức trại bố trí tham quan, trải nghiệm thực tế tại Trường Sỹ quan Không quân (Quân chủng Phòng không - Không quân) đóng chân tại thành phố biển Nha Trang để có thêm chất liệu, sáng tác, thể hiện đời sống, công tác huấn luyện và tinh thần sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng phòng không - không quân. Có thể kể đến một số tác phẩm như: "Giảng đường trên mây" của họa sĩ Lưu Thành Quả, "Siêu thanh" của họa sĩ Trần Tuấn Long, "Lính thợ' của họa sĩ Bùi Anh Hùng, "Chiến công thầm lặng" của họa sĩ Lê Thị Thắm, "Bay cùng mặt trời" của họa sĩ Nguyễn Thị Dung, "Khát vọng bầu trời" của họa sĩ Ngô Đức Chung, "Huấn luyện" của họa sĩ trẻ Trần Lê Huy… Ngoài ra, một số họa sĩ đã tích cực khai thác chủ đề đấu tranh giải phóng dân tộc tiêu biểu như: "Mừng chiến thắng" của họa sĩ Bùi Văn Quang, "Đêm tháng Chạp - 1972" của họa sĩ Lưu Thành Quả, "Lòng dân" của họa sĩ Lê Huỳnh, "Huyền thoại mười một cô gái sông Hương" của họa sĩ Nguyễn Đình Dàng…  

Chúng ta còn nhớ, trong cuộc vận động sáng tác mỹ thuật toàn quốc về đề tài “Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng” giai đoạn 2016 - 2020, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức được 7 Trại sáng tác mỹ thuật ở các Nhà sáng tác trực thuộc Trung tâm tại 3 miền Bắc, Trung, Nam; thu hút được 105 lượt các họa sĩ, nhà điêu khắc tham gia; sáng tác được hơn 200 tác phẩm mỹ thuật phong phú về chất liệu, đa dạng về phong cách và ngôn ngữ tạo hình; được thể hiện trên các lĩnh vực hội họa, đồ họa và điêu khắc. Trên cơ sở đó, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã lựa chọn 68 tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu của 68 họa sĩ, nhà điêu khắc trong và ngoài Quân đội để giới thiệu tới công chúng trong triển lãm Tác phẩm Mỹ thuật tiêu biểu tại các Trại sáng tác mỹ thuật về đề tài “Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng”.

Theo Ban Tổ chức, các tác phẩm được sáng tác tại trại sẽ được tuyển chọn và sẵn sàng tham dự các triển lãm mỹ thuật của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Mỹ thuật Việt Nam; tham gia xét giải thưởng Văn học nghệ thuật và Báo chí 5 năm (2021 - 2025) của Bộ Quốc phòng, nhằm đưa các tác phẩm mỹ thuật đến với công chúng yêu nghệ thuật tạo hình và hy vọng rằng, kết quả Cuộc vận động sáng tác mỹ thuật về đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng giai đoạn 2021-2025" sẽ có nhiều thành công vượt trội.

Bế mạc Trại sáng tác mỹ thuật đề tài 'Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng'

Sáng 18/5/2022, tại Nhà sáng tác Nha Trang, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tổ chức bế mạc Trại sáng tác mỹ thuật với đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng" năm 2022.

Đây là trại sáng tác thứ 2 trong khuôn khổ Cuộc vận động sáng tác mỹ thuật về đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng giai đoạn 2021-2025", quy tụ 15 họa sĩ trong và ngoài Quân đội, đến từ 3 miền Bắc - Trung - Nam. 

bemacbtlsqsvnt5 2022

Sau nửa tháng tham gia trại, các họa sĩ đã sáng tác 30 tác phẩm gồm tranh sơn dầu, acrylic, sơn mài... thể hiện nhiều ý tưởng trong sáng tạo hình tượng nghệ thuật, với hình thức ngôn ngữ biểu đạt phong phú, bám sát định hướng chủ đề, nội dung sáng tác đặt ra. Nhiều tác phẩm đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ hôm nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.

Phát biểu bế mạc Trại sáng tác, Thượng tá Lê Vũ Huy, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam - Trưởng ban Tổ chức Trại nhấn mạnh: Trại sáng tác mỹ thuật với đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng" đã trở thành mô hình sáng tạo, là nơi ươm mầm tài năng, phát triển ý tưởng cho giới họa sĩ trong lực lượng Quân đội nói riêng, họa sĩ cả nước nói chung, bao gồm nhiều thế hệ và của cả ba miền.

Nhiều tác phẩm đã thể hiện góc nhìn mới như: "Chiến hạm của họa sĩ Nguyễn Thị Tuyết, "Bảo dưỡng phao hàng hải" của họa sĩ Lê Duy Khanh, "Chiều trên hạm" của họa sĩ Nguyễn Thị Hải Nhung, "Lính đảo" của họa sĩ Hồ Minh Quân, "Miền biên thùy" của họa sĩ Nguyễn Văn Hoàn...

bemacbtlsqsvnt5 2022 1

Các họa sĩ được Ban tổ chức trại bố trí tham quan, trải nghiệm thực tế tại Trường Sỹ quan Không quân (Quân chủng Phòng không - Không quân) đóng chân tại thành phố biển Nha Trang để có thêm chất liệu, sáng tác, thể hiện đời sống, công tác huấn luyện và tinh thần sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng phòng không - không quân. Có thể kể đến một số tác phẩm như: "Giảng đường trên mây" của họa sĩ Lưu Thành Quả, "Siêu thanh" của họa sĩ Trần Tuấn Long, "Lính thợ' của họa sĩ Bùi Anh Hùng, "Chiến công thầm lặng" của họa sĩ Lê Thị Thắm, "Bay cùng mặt trời" của họa sĩ Nguyễn Thị Dung, "Khát vọng bầu trời" của họa sĩ Ngô Đức Chung, "Huấn luyện" của họa sĩ trẻ Trần Lê Huy… Ngoài ra, một số họa sĩ đã tích cực khai thác chủ đề đấu tranh giải phóng dân tộc tiêu biểu như: "Mừng chiến thắng" của họa sĩ Bùi Văn Quang, "Đêm tháng Chạp - 1972" của họa sĩ Lưu Thành Quả, "Lòng dân" của họa sĩ Lê Huỳnh, "Huyền thoại mười một cô gái sông Hương" của họa sĩ Nguyễn Đình Dàng…  

Chúng ta còn nhớ, trong cuộc vận động sáng tác mỹ thuật toàn quốc về đề tài “Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng” giai đoạn 2016 - 2020, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức được 7 Trại sáng tác mỹ thuật ở các Nhà sáng tác trực thuộc Trung tâm tại 3 miền Bắc, Trung, Nam; thu hút được 105 lượt các họa sĩ, nhà điêu khắc tham gia; sáng tác được hơn 200 tác phẩm mỹ thuật phong phú về chất liệu, đa dạng về phong cách và ngôn ngữ tạo hình; được thể hiện trên các lĩnh vực hội họa, đồ họa và điêu khắc. Trên cơ sở đó, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã lựa chọn 68 tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu của 68 họa sĩ, nhà điêu khắc trong và ngoài Quân đội để giới thiệu tới công chúng trong triển lãm Tác phẩm Mỹ thuật tiêu biểu tại các Trại sáng tác mỹ thuật về đề tài “Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng”.

Theo Ban Tổ chức, các tác phẩm được sáng tác tại trại sẽ được tuyển chọn và sẵn sàng tham dự các triển lãm mỹ thuật của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Mỹ thuật Việt Nam; tham gia xét giải thưởng Văn học nghệ thuật và Báo chí 5 năm (2021 - 2025) của Bộ Quốc phòng, nhằm đưa các tác phẩm mỹ thuật đến với công chúng yêu nghệ thuật tạo hình và hy vọng rằng, kết quả Cuộc vận động sáng tác mỹ thuật về đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng giai đoạn 2021-2025" sẽ có nhiều thành công vượt trội.

Bế mạc Trại sáng tác mỹ thuật đề tài 'Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng'

Sáng 18/5/2022, tại Nhà sáng tác Nha Trang, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tổ chức bế mạc Trại sáng tác mỹ thuật với đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng" năm 2022.

Đây là trại sáng tác thứ 2 trong khuôn khổ Cuộc vận động sáng tác mỹ thuật về đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng giai đoạn 2021-2025", quy tụ 15 họa sĩ trong và ngoài Quân đội, đến từ 3 miền Bắc - Trung - Nam. 

bemacbtlsqsvnt5 2022

Sau nửa tháng tham gia trại, các họa sĩ đã sáng tác 30 tác phẩm gồm tranh sơn dầu, acrylic, sơn mài... thể hiện nhiều ý tưởng trong sáng tạo hình tượng nghệ thuật, với hình thức ngôn ngữ biểu đạt phong phú, bám sát định hướng chủ đề, nội dung sáng tác đặt ra. Nhiều tác phẩm đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ hôm nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.

Phát biểu bế mạc Trại sáng tác, Thượng tá Lê Vũ Huy, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam - Trưởng ban Tổ chức Trại nhấn mạnh: Trại sáng tác mỹ thuật với đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng" đã trở thành mô hình sáng tạo, là nơi ươm mầm tài năng, phát triển ý tưởng cho giới họa sĩ trong lực lượng Quân đội nói riêng, họa sĩ cả nước nói chung, bao gồm nhiều thế hệ và của cả ba miền.

Nhiều tác phẩm đã thể hiện góc nhìn mới như: "Chiến hạm của họa sĩ Nguyễn Thị Tuyết, "Bảo dưỡng phao hàng hải" của họa sĩ Lê Duy Khanh, "Chiều trên hạm" của họa sĩ Nguyễn Thị Hải Nhung, "Lính đảo" của họa sĩ Hồ Minh Quân, "Miền biên thùy" của họa sĩ Nguyễn Văn Hoàn...

bemacbtlsqsvnt5 2022 1

Các họa sĩ được Ban tổ chức trại bố trí tham quan, trải nghiệm thực tế tại Trường Sỹ quan Không quân (Quân chủng Phòng không - Không quân) đóng chân tại thành phố biển Nha Trang để có thêm chất liệu, sáng tác, thể hiện đời sống, công tác huấn luyện và tinh thần sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng phòng không - không quân. Có thể kể đến một số tác phẩm như: "Giảng đường trên mây" của họa sĩ Lưu Thành Quả, "Siêu thanh" của họa sĩ Trần Tuấn Long, "Lính thợ' của họa sĩ Bùi Anh Hùng, "Chiến công thầm lặng" của họa sĩ Lê Thị Thắm, "Bay cùng mặt trời" của họa sĩ Nguyễn Thị Dung, "Khát vọng bầu trời" của họa sĩ Ngô Đức Chung, "Huấn luyện" của họa sĩ trẻ Trần Lê Huy… Ngoài ra, một số họa sĩ đã tích cực khai thác chủ đề đấu tranh giải phóng dân tộc tiêu biểu như: "Mừng chiến thắng" của họa sĩ Bùi Văn Quang, "Đêm tháng Chạp - 1972" của họa sĩ Lưu Thành Quả, "Lòng dân" của họa sĩ Lê Huỳnh, "Huyền thoại mười một cô gái sông Hương" của họa sĩ Nguyễn Đình Dàng…  

Chúng ta còn nhớ, trong cuộc vận động sáng tác mỹ thuật toàn quốc về đề tài “Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng” giai đoạn 2016 - 2020, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức được 7 Trại sáng tác mỹ thuật ở các Nhà sáng tác trực thuộc Trung tâm tại 3 miền Bắc, Trung, Nam; thu hút được 105 lượt các họa sĩ, nhà điêu khắc tham gia; sáng tác được hơn 200 tác phẩm mỹ thuật phong phú về chất liệu, đa dạng về phong cách và ngôn ngữ tạo hình; được thể hiện trên các lĩnh vực hội họa, đồ họa và điêu khắc. Trên cơ sở đó, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã lựa chọn 68 tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu của 68 họa sĩ, nhà điêu khắc trong và ngoài Quân đội để giới thiệu tới công chúng trong triển lãm Tác phẩm Mỹ thuật tiêu biểu tại các Trại sáng tác mỹ thuật về đề tài “Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng”.

Theo Ban Tổ chức, các tác phẩm được sáng tác tại trại sẽ được tuyển chọn và sẵn sàng tham dự các triển lãm mỹ thuật của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Mỹ thuật Việt Nam; tham gia xét giải thưởng Văn học nghệ thuật và Báo chí 5 năm (2021 - 2025) của Bộ Quốc phòng, nhằm đưa các tác phẩm mỹ thuật đến với công chúng yêu nghệ thuật tạo hình và hy vọng rằng, kết quả Cuộc vận động sáng tác mỹ thuật về đề tài "Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng giai đoạn 2021-2025" sẽ có nhiều thành công vượt trội.

Bế mạc Trại sáng tác Âm nhạc 2022 Vũng Tàu

Ngày 15/5/2022, tại Nhà sáng tác Vũng Tàu, Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã tổ chức bế mạc trại sáng tác Âm nhạc Vũng Tàu 2022.

Dự bế mạc trại có: PGS.TS, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân – Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; ông Lê Văn Minh – Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu; ông Hùng Văn Hồng – Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bà Rịa – Vũng Tàu; ông Trần Công Sơn – Trưởng phòng quản lý Văn hóa và Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nhạc sĩ Phạm Minh Tiến – Phó Trưởng Đoàn nghệ thuật ca múa nhạc tỉnh; bà Huỳnh Hà Quỳnh Châu – Phó Giám đốc Nhà Sáng tác Vũng Tàu; các nhạc sĩ Chi hội nhạc sĩ Việt Nam Bà Rịa Vũng Tầu; Đài PTTH, các báo, đài địa phương…

Về phía Hội Nhạc sĩ Việt Nam có: Thiếu tướng, nhạc sĩ Đức Trịnh – Chủ tịch Hội; nhạc sĩ Hoàng Mạnh Toàn – Trưởng Văn phòng đại diện phía Nam, Trưởng Trại sáng tác, cùng toàn thể các nhạc sĩ tham dự Trại sáng tác.

bemacamnhacvnt5 2022

PGS.TS, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân đã có bài phát biểu, biểu dương các nhạc sĩ có kết quả sáng tác nhiều tác phẩm âm nhạc có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng trong giai đoạn mới; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về công tác văn hóa. Mối quan tâm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước dành cho văn hóa, cùng sứ mệnh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.

Về kết quả Trại, nhạc sĩ Đức Trịnh đã có nhận xét: “Trại sáng tác lần này đạt nhiều thành tích, trong thời gian ngắn các nhạc sĩ đã tập trung sáng tác các tác phẩm chất lượng tốt, đúng chủ đề nội dung mà Ban tổ chức đề ra”.

Trại sáng tác lần này đã gặt hái được những thành công và đạt được kết quả tốt đẹp, đặc biệt là được sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và thành phố Vũng Tàu, Sở Văn hóa, Hội Văn học nghệ thuật, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi để các nhạc sĩ dự trại có các chuyến đi thực tế bổ ích, tạo cảm hứng cho ra đời các tác phẩm có chất lượng tốt, chân thực. Nội dung các tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, truyền thống cách mạng của địa phương, đời sống xã hội, cuộc sống đa sắc màu, con người lao động.

Nhạc sĩ Hoàng Mạnh Toàn – Trưởng trại, báo cáo đánh giá kết quả chuyên môn: Trong quá trình tham gia trại các nhạc sĩ đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, thường xuyên cùng nhau trao đổi kinh nghiệm sáng tác. Các nhạc sĩ có nhiều kinh nghiệm như PGS.TS, nhạc sĩ Thế Bảo luôn gương mẫu và tận tình giúp đỡ anh em trẻ trong sinh hoạt cũng như về chuyên môn. Mọi người nghiêm túc trong sinh hoạt, chấp hành tốt các qui định của Nhà Sáng tác và Ban Tổ chức.

Ban tổ chức đã nghiệm thu được 18 tác phẩm của 16 nhạc sĩ (14 tác phẩm Romance, 03 tác phẩm Khí nhạc, 01 tác phẩm hợp xướng), có nhạc sĩ báo cáo sáng tác được 2 tác phẩm.

bemacamnhacvnt5 2022 1

Nhạc sĩ Hoàng Mạnh Toàn – Trưởng Trại, đã trao lại số tác phẩm của các nhạc sĩ sáng tác trong thời gian dự trại cho lãnh đạo Nhà sáng tác Vũng Tàu, với sự chứng kiến của nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân – Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật và nhạc sĩ Đức Trịnh – Chủ tịch Hội.

bemacamnhacvnt5 2022 2

Ban tổ chức đã lựa chọn được 8 tác phẩm có chất lượng tốt, dàn dựng để các nghệ sĩ, ca sĩ của Đoàn nghệ thuật ca múa nhạc tỉnh Vũng Tàu biểu diễn báo cáo tổng kết trại. Các tác phẩm này sẽ được báo cáo lên Hội đồng nghệ thuật của Hội để xem xét, đánh giá và phát hành tới công chúng.

Bế mạc Trại sáng tác Âm nhạc 2022 Vũng Tàu

Ngày 15/5/2022, tại Nhà sáng tác Vũng Tàu, Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã tổ chức bế mạc trại sáng tác Âm nhạc Vũng Tàu 2022.

Dự bế mạc trại có: PGS.TS, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân – Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; ông Lê Văn Minh – Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu; ông Hùng Văn Hồng – Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bà Rịa – Vũng Tàu; ông Trần Công Sơn – Trưởng phòng quản lý Văn hóa và Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nhạc sĩ Phạm Minh Tiến – Phó Trưởng Đoàn nghệ thuật ca múa nhạc tỉnh; bà Huỳnh Hà Quỳnh Châu – Phó Giám đốc Nhà Sáng tác Vũng Tàu; các nhạc sĩ Chi hội nhạc sĩ Việt Nam Bà Rịa Vũng Tầu; Đài PTTH, các báo, đài địa phương…

Về phía Hội Nhạc sĩ Việt Nam có: Thiếu tướng, nhạc sĩ Đức Trịnh – Chủ tịch Hội; nhạc sĩ Hoàng Mạnh Toàn – Trưởng Văn phòng đại diện phía Nam, Trưởng Trại sáng tác, cùng toàn thể các nhạc sĩ tham dự Trại sáng tác.

bemacamnhacvnt5 2022

PGS.TS, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân đã có bài phát biểu, biểu dương các nhạc sĩ có kết quả sáng tác nhiều tác phẩm âm nhạc có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng trong giai đoạn mới; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về công tác văn hóa. Mối quan tâm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước dành cho văn hóa, cùng sứ mệnh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.

Về kết quả Trại, nhạc sĩ Đức Trịnh đã có nhận xét: “Trại sáng tác lần này đạt nhiều thành tích, trong thời gian ngắn các nhạc sĩ đã tập trung sáng tác các tác phẩm chất lượng tốt, đúng chủ đề nội dung mà Ban tổ chức đề ra”.

Trại sáng tác lần này đã gặt hái được những thành công và đạt được kết quả tốt đẹp, đặc biệt là được sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và thành phố Vũng Tàu, Sở Văn hóa, Hội Văn học nghệ thuật, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi để các nhạc sĩ dự trại có các chuyến đi thực tế bổ ích, tạo cảm hứng cho ra đời các tác phẩm có chất lượng tốt, chân thực. Nội dung các tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, truyền thống cách mạng của địa phương, đời sống xã hội, cuộc sống đa sắc màu, con người lao động.

Nhạc sĩ Hoàng Mạnh Toàn – Trưởng trại, báo cáo đánh giá kết quả chuyên môn: Trong quá trình tham gia trại các nhạc sĩ đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, thường xuyên cùng nhau trao đổi kinh nghiệm sáng tác. Các nhạc sĩ có nhiều kinh nghiệm như PGS.TS, nhạc sĩ Thế Bảo luôn gương mẫu và tận tình giúp đỡ anh em trẻ trong sinh hoạt cũng như về chuyên môn. Mọi người nghiêm túc trong sinh hoạt, chấp hành tốt các qui định của Nhà Sáng tác và Ban Tổ chức.

Ban tổ chức đã nghiệm thu được 18 tác phẩm của 16 nhạc sĩ (14 tác phẩm Romance, 03 tác phẩm Khí nhạc, 01 tác phẩm hợp xướng), có nhạc sĩ báo cáo sáng tác được 2 tác phẩm.

bemacamnhacvnt5 2022 1

Nhạc sĩ Hoàng Mạnh Toàn – Trưởng Trại, đã trao lại số tác phẩm của các nhạc sĩ sáng tác trong thời gian dự trại cho lãnh đạo Nhà sáng tác Vũng Tàu, với sự chứng kiến của nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân – Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật và nhạc sĩ Đức Trịnh – Chủ tịch Hội.

bemacamnhacvnt5 2022 2

Ban tổ chức đã lựa chọn được 8 tác phẩm có chất lượng tốt, dàn dựng để các nghệ sĩ, ca sĩ của Đoàn nghệ thuật ca múa nhạc tỉnh Vũng Tàu biểu diễn báo cáo tổng kết trại. Các tác phẩm này sẽ được báo cáo lên Hội đồng nghệ thuật của Hội để xem xét, đánh giá và phát hành tới công chúng.

Bế mạc Trại sáng tác Múa Việt Nam 2022 tại Đà Lạt

Ngày 12/5/2022, Hội Nghệ sĩ Múa Việt Nam đã tổ chức bế mạc Trại sáng tác Múa năm 2022 tại Nhà sáng tác Đà Lạt.

Tham dự trại có 38 hội viên là các nhà lý luận phê bình múa, huấn luyện múa, thành viên Ban Chấp hành Hội, chuyên gia lý luận đến từ 11 tỉnh, thành trong cả nước: 6 nghệ sĩ nhân dân, 5 nghệ sĩ ưu tú, 3 nhà giáo ưu tú, 7 tiến sĩ, 12 thạc sĩ. 

bemacmuavnt5 2022

Trại sáng tác kết hợp hài hòa giữa hai nhiệm vụ là sáng tác kịch bản múa và công tác lý luận phê bình, cùng nhiều vấn đề chuyên môn trong việc đổi mới, phát triển nghệ thuật múa nước nhà được đặt ra tại các buổi tọa đàm, thảo luận, trao đổi nghiệp vụ. Các nghệ sĩ đã dành nhiều thời gian cho các buổi tọa đàm về chương trình lý luận phê bình nghệ thuật múa đối với cuộc sống và sáng tạo về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; trao đổi về tính hấp dẫn của tác phẩm múa, âm nhạc, giai điệu, ca từ, sân khấu đối thoại và văn học…; trao đổi thực trạng về công tác lý luận phê bình về nghệ thuật múa, trao đổi suy nghĩ sau khi xem một số tác phẩm được đánh giá cao trong liên hoan ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc đợt 1 năm 2021 vừa qua tại Hải Phòng… Những phát biểu, nhận diện, phản biện, đánh giá của các nghệ sĩ múa có uy tín nghề nghiệp, có chuyên môn cao đã kích thích sự hứng khởi, tinh thần sáng tạo của các thành viên trong các buổi tọa đàm. Qua đó đã làm bật lên nhiều vấn đề: nhận diện đội ngũ lý luận thực tế đang rất hạn chế, đa phần quá già trên 80 tuổi; mức độ tiếp cận, hay phương pháp tiếp cận cần đòi hỏi năng lực ban đầu hay kỹ năng mềm trong tư duy, khả năng thuyết trình trước công chúng về lý thuyết nghề nghiệp. Cần tập hợp những nghệ sĩ múa có khả năng viết lý luận phê bình cho nghệ thuật múa, mức độ trao đổi kinh nghiệm, nhận thức, trải nghiệm về nghề. 

Bên cạnh đó, các nghệ sĩ múa đã thâm nhập thực tế, tham quan danh lam thắng cảnh như thiền viện Trúc Lâm, thăm buôn làng Đạ Nghịt (xã Lát – Lạc Dương), giao lưu văn hóa nghệ thuật qua các vũ điệu múa xoang của người K’Ho, Mạ, múa Arya của người Churu... đã bổ sung chất liệu dân tộc độc đáo, sinh động cho những kiến thức tạo nên những hứng khởi sáng tạo cho các nghệ sĩ.

Các đề tài kịch bản múa phong phú, đa dạng và phản ánh những trang sử hào hùng của dân tộc, sự sinh động của cuộc sống xã hội Việt Nam hôm qua và hôm nay, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần và ý chí của những người con đất Việt trong lao động, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, trong công cuộc đổi mới đất nước

Kết thúc Trại sáng tác, các nghệ sĩ đã sáng tạo được 20 kịch bản múa ngắn, 2 kịch bản lễ hội cấp tỉnh và 11 bài viết nghiên cứu nghệ thuật múa. Đây là kết quả của tinh thần lao động sáng tạo nghệ thuật nghiêm túc, là minh chứng của lòng nhiệt thành, tình yêu nghệ thuật và khát vọng được cống hiến cho sự nghiệp phát triển nghệ thuật múa Việt Nam. 

Từ thành công của Trại sáng tác, các các biên đạo, các nhà lý luận phê bình như được tiếp lửa để tiếp tục sáng tạo được nhiều tác phẩm chất lượng và giá trị nghệ thuật cao, đáp ứng yêu cầu phát triển văn hoá của đất nước. 

Phong tục hôn nhân và gia đình của tộc người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế ( trích - kỳ 2) - Tác giả Nguyễn Thế Phong – Hội văn nghệ dân gian Việt Nam

Phong tục hôn nhân và gia đình của tộc người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế ( trích)

Phong tục nói chung và phong tục trong hôn nhân gia đình đã được bà con các dân tộc thực hiện một cách tự nguyện trải qua nhiều thế hệ. Chính phong tục này đã tạo nên nét đẹp nhân văn của tình yêu đôi lứa của các tộc người nơi đại ngàn trường sơn. Ngủ duông, ngủ mái, đi sim… là điều kiện để những đôi trai gái gặp gỡ, trao đổi tâm tình bằng những điệu khèn, tiếng đàn cùng những câu hát giao duyên, mà chỉ những lứa đôi ấy mới cảm nhận được tình cảm chứa chan mà họ trao gửi cho nhau. Kết quả của những cuộc ngủ duông, ngủ mái, đi sim… nơi chòi lá hay bên những bờ suối chảy róc rách, có tiếng chim hót hòa điệu cùng lời tình tự của những đôi trai gái nơi rừng sâu không chỉ mang cho họ cuộc sống hạnh phúc lứa đôi mà còn có cả niềm vui của cộng đồng bên ngọn lửa hồng và những ché rượu cần mừng duyên mới.

Trong thời gian tìm hiểu, chàng trai đến nhà cô gái, gõ 3 tiếng để báo tín hiệu gặp gỡ. Cô gái Cơ Tu bước ra khỏi nhà và lên tiếng:

Anh ơi !

Anh đứng đó anh chờ ai ?

Anh chờ em hay anh chờ người nào khác ?

Chàng trai đáp:

Anh đến đây chỉ chờ một mình em.

Anh không chờ người nào khác.

Cô gái lại thỏ thẽ:

Em đi tìm nước, em nhớ đến anh.

Dù em đẹp em xấu, em cũng bú sữa mẹ.

Dù em đen em xấu, cha mẹ em vẫn nuôi.

Chàng trai lại tỉ tê:

Anh đi tìm suối, anh nhớ em.

Hình dáng em vẫn đẹp.

Nụ cười em đẹp như vầng trăng…

Rồi họ rủ nhau vào rẫy để tìm hiểu. Khi cùng nhau ngủ duông trên chòi, nằm gát chân lên nhau, họ trao nhau những nụ hôn đắm đuối, chàng trai lại tỏ bày:

Chân em đẹp như thân dong,

Chân em trắng xinh giống cây chuối rừng xanh.

Đôi môi em xinh tựa đóa hoa Lơ lang,

Lấp lánh trong anh cánh hoa Dhavai…

Cô gái Cơ Tu như đắm chìm trong tình cảm nồng nàn của chàng trai. Cái bụng đã ưng nhưng vẫn kín đáo ướm lời:

Con chim Avương ngoan đậu nhánh cây dang,

Con chim Avang xinh đứng trên cây lồ ô.

Ai cõng em qua sông, em tặng chuổi cườm mã nảo.

Ai dắt em qua sông, em sẽ trao chiếc khố đẹp tự tay em dệt…

“Đôi ta cùng xây đắp cuộc đời. Trên rẫy ta có nhau, bên suối ta có nhau. No đói ta có nhau, hạnh phúc ta có nhau”...

Là người đàn ông Cơ Tu,

biết đánh trống thổi kèn, gánh vác công việc trong làng và biết lo hạnh phúc gia đình

Là người đàn bà Cơ Tu, biết cấy hái gieo trồng, sớm hôm lo việc ruộng nương, lại khéo tay dệt thổ cẩm

Việc nhà luôn giỏi giang, hát hay múa dẻo tay và dễ thương như những thiên thần...”.

"Em là người anh cậy,

cha mẹ anh trông đến cưới,

Thương em đến nỗi sầu lo,

Nhớ em đến nỗi ốm mòn bỏ ăn,

Ước gì gan ruột anh trở về em"

Trong thời gian tìm hiểu, ngườ con trai Cơ Tu thường mang theo cây Abel, một loại nhạc cụ rất độc đáo gắn liền với cuộc sống thường ngày của đồng bào dân tộc Cơ Tu trên dãy Trường Sơn. Đặc biệt, chỉ cần được nghe qua tiếng đàn abel, chàng trai và cô gái sẽ hiểu được tâm tư và tình cảm của họ dành cho nhau. Abel là tiếng đàn đại diện cho tiếng nói của tình yêu nam nữ Cơ Tu. Khi chơi đàn, hai người sẽ ngồi kề sát bên nhau. Chàng trai sẽ dùng cần kéo để tạo ra âm thanh qua chỗ tiếp giáp giữa dây đàn và thân đàn, đồng thời, bàn tay trái bấm vào dây đàn tạo ra âm thanh. Phần quan trọng nhất của đàn abel có tên là khêl - một sợi dây rừng kết nối và được buộc vào miếng vẩy con trút dáng hình tròn. Cô gái sẽ ngậm khêl và hai hàm răng cắn lấy vẩy trút, giữ cho sợi chỉ trong trạng thái luôn căng, cùng lúc dùng lưỡi và hơi tạo nên những âm thanh, nhưng hai hàm răng vẫn cắn chặt lấy vẩy trút. Vừa đàn, vừa liếc mắt đưa tình, tiếng đàn phát ra như tiếng chim hót, tiếng suối chảy, tạo thành một nản giao hưởng của tình yêu giữa núi rừng bao la như tiếp thêm sức mạnh tình yêu đôi lứa. Tiếng đàn Abel như gửi gắm những điều mong ước, khát vọng về tình yêu, về hạnh phúc, về cuộc sống tươi đẹp của đôi trai gái người Cơ Tu đang tỏ tình cùng nhau. Tiếng đàn Abel đang dẫn đường đưa lối để họ đến với nhau và xây dựng tương lai hạnh phúc nơi đại ngàn trường sơn.

VÀI NÉT VỀ CƯ DÂN ĐỒNG NAI VỚI NGHỀ THỦ CÔNG (trích) - Tác giả Phan Đình Dũng – Hội văn nghệ dân gian Việt Nam

VÀI NÉT VỀ CƯ DÂN ĐỒNG NAI VỚI NGHỀ THỦ CÔNG (trích)

I. Tổng quan về cư dân Đồng Nai

           Tỉnh Đồng Nai ở khu vực Đông Nam Bộ của Việt Nam, là địa bàn có sự cộng cư của nhiều thành phần tộc người. Theo số liệu thống kê về dân số và nhà ở năm 2019, tỉnh Đồng Nai có 33 dân tộc, bao gồm: Kinh (Việt), Hoa, Chơ-ro, Mạ, Xtiêng, Khmer, Chăm, Tày, Nùng, Dao, Thái… Các cư dân trải qua nhiều giai đoạn đến Đồng Nai và sinh tụ trên vùng đất này bằng nhiều hoạt động kinh tế; trong đó có nghề thủ công.

Nghiên cứu về khảo cổ học cho thấy, thời kỳ tiền -sơ sử có nhiều cư dân sinh sống và đã để lại nhiều dấu ân trong quá trình sinh tồn. Trong đời sống xã hội, các cư dân trước đây có các hoạt động kinh tế về nghề nghiệp: nghề chế tác công cụ sản xuất, nghề làm vật dụng, trong đó có nghề gốm phát triển qua những hiện vật được tìm thấy trong các di chỉ. Một số hiện vật bằng các chất liệu mã não, đá, kim loại của thời kỳ xưa cho thấy cư dân cổ có trình độ chế tác kỹ thuật cao (công cụ, đồ trang sức, tượng, phù điêu…). Các cư dân sinh sống lâu đời ở vùng phía Bắc của tình là Mạ, Chơ-ro, Xtiêng… có những nghề thủ công rèn, đan lát, dệt thổ cẩm… Cộng đồng người Việt, Hoa đến khai khẩn vùng đất này, đã hình thành nên các nghề thủ công để phục vụ cho nhu cầu của đời sống. Hiện nay, nghề thủ công ở Đồng Nai đứng trước những thuận lợi đề phát triển. Tuy nhiên, qua sự biến chuyển của xã hội, nhiều nghề thủ công đã không còn được duy trì bởi nhiều yếu tố tác động.

II. Nghề đúc gang

           Trong quá trình cộng cư, mưu sinh trên vùng đất Nam Bộ, cộng đồng các tộc người đã hình thành những nghề thủ công song hành với các phương thức kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, khai thác nguồn tài nguyên tự nhiên. Những phát hiện khảo cổ cho thấy, những thế hệ cư dân xưa trên vùng đất Nam Bộ đã phát triển nghề đúc kim loại (đồng, vàng) ở trình độ cao. Bằng chứng là những tượng thờ bằng đồng, hiện vật bằng vàng được đúc, chạm, điêu khắc sắc sảo, tinh vi với nhiều hình dạng, kích cỡ, hoa văn phong phú được thể hiện trong tín ngưỡng, tôn giáo được tìm thấy, phát hiện trong các di chỉ khảo cổ. Những sản phẩm của nghề đúc đồng, vàng xưa trở thành những hiện vật, tư liệu quý hiện nay đang trưng bày tại các bảo tàng địa phương, ở Thành phố Hồ Chí Minh[1]. Cư dân Việt, Hoa, Chăm đến sinh sống sau này cũng đã hình thành các nghề thủ công, trong đó có nghề đúc đồng, duy trì cho đến ngày nay. Sản phẩm của nghề đúc đồng đáp ứng cho nhu cầu lao động, khẩn hoang trên vùng đất mới, trước hết là những công cụ lao động, sau đó là những đồ dùng, đồ thờ trong tín ngưỡng, tôn giáo. Sự phát triển của nghề thủ công này tùy thuộc vào từng địa bàn và từng thời điểm để phát triển thành làng nghề với nhiều hộ gia đình tham gia. Trong từng giai đoạn, từ tác động của những yếu tố (chiến tranh, thị trường tiêu thụ…), một số làng nghề mai một. Đặc biệt, ở vùng đô thị Sài Gòn và lân cận, nghề đúc đồng phát triển bởi dân cư đông, là trung tâm trao đổi hàng hóa phát triển. Ở Bà Rịa – Vũng Tàu, làng nghề đúc đồng được hình thành từ những cư dân Bình Định (miền Trung) đến sinh sống khoảng thế kỷ XVII. Theo Nguyễn Thanh Lợi, nghề đúc đồng có mặt tại Sài Gòn khá sớm. Những người thợ từ Quy Nhơn vào đất Gia Định những năm 1720 - 1750 lập ra làng chuyên đúc đồng Nhơn Giang (Nhơn Ngãi) ở khu vực Chợ Quán. Nghề đúc đồng ở đây đã có nhiều cải tiến về phương pháp sản xuất, kiểu dáng sản phẩm, dần dần trở nên nổi tiếng với một phong cách riêng. Tổng trấn Lê Văn Duyệt rất quan tâm, ông hay đến quan sát cách thức sản xuất của thợ và khách hàng tiêu thụ thường xuyên của làng nghề này[2]. Địa bàn Biên Hòa xưa, nay thuộc Đồng Nai có nghề đúc gang được hình thành từ thế kỷ XIX. Không như những làng nghề đúc đồng ở miền Bắc với sự hình thành lâu đời, biết được gốc gác truyền nghề từ những con người cụ thể, những làng nghề đúc đồng ở Nam Bộ hình thành muộn hơn. Người thợ làm nghề vẫn thờ cúng Tổ nghề nhưng với tính chất cá nhân của hộ gia đình, không có cơ sở tín ngưỡng chung. Tổ nghề được xác định một cách chung Tam vị Tổ sư ở nhất như làng nghề làng nghề An Hội, quận Gò Vấp, TPHCM. Làng nghề Thạnh Phú ở Đồng Nai cho biết người của làng học nghề từ Thái Lan (đi lính) và truyền nghề cho dân làng, được tôn thành Tổ nghề. Hiện nay, các làng nghề đúc (đồng, gang) ở Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn duy trì với những hộ gia đình gắn bó qua những thăng trầm, sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu không chỉ của người dân địa phương và nhiều nơi. Nhiều hộ gia đình, các nghệ nhân nắm giữ những bí quyết của nghề, áp dụng khoa học kỹ thuật trong một số công đoạn để chế tạo những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường, mở hướng cho làng nghề phát triển. Tuy nhiên, những người thợ của làng nghề ít dần trong sự chuyển đổi sinh kế bởi nguồn thu nhập chưa ổn định so với các ngành nghề hiện tại.

2.3.2. Nghề đúc gang ở Thạnh Phú – Đồng Nai

- Vài nét lịch sử

Nghề đúc gang ở Thành Phú được nhiều hộ dân duy trì tại ấp 2, xã xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu. Nghề được hình thành vào thế kỷ XIX (thuộc làng Bình Thạnh, tổng Phước Vĩnh Hạ, tỉnh Biên Hòa trước đây). Ông tổ của nghề được truyền khẩu là người của làng, đi lính qua Xiêm (Thái Lan) học nghề và trở về truyền lại cho dòng họ. Đời thứ tư của Tổ nghề hiện đang sống và làm nghề tại làng. Thời kỳ phát triển, làng nghề có 30 lò đúc gang ở các làng Bình Thạnh, Tân Phong, Bình Thành, Bình Lợi, Bình Ý. Lò đúc đầu tiên hình thành ở ấp Xóm Mới với cách làm thủ công với những vật dụng, đồ nghề, cơ sở thô sơ: đôi bễ thổi lửa, lò chõ nấu gang, lò nung khuôn, khuôn đất sét, than củi. Sau này, sản phẩm nghề đúc được các nơi mua nhiều, nên nhiều gia đình chon con cháu theo học nghề. Các công đoạn đúc gang đòi hỏi nhưng người theo học và sau này làm thợ phải có sức khỏe, tính cẩn thận, chịu khó. Mỗi lò đúc đòi hỏi nguồn nhân công khoảng 20 người.

           Làng nghề hoạt động qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Năm 1945, chiến tranh xảy ra nên làng nghề không hoạt động. Năm 1947, làng nghề hoạt động trở lại nhưng sau đó, do mức độ chiến tranh ngày càng ác liệt ở địa phương, một số thợ đúc của làng nghề rời làng đến Sài Gòn, Tây Ninh tiếp tục làm cho các lò đúc khác. Năm 1951, làng nghề hoạt động trở lại, chủ yếu sản xuất công cụ nông nghiệp, chủ yếu là lưỡi cày bán ở địa phương và các vùng phụ cận. Năm 1959, những người thợ Nguyễn Văn Sườn, Nguyễn Văn Khâu rời làng trước đây trở về địa phương, đem áp dụng những kỹ thuật mới cho làng nghề: nấu gang bằng lò nằm, nấu dầu lửa và sau đó thay lò chõ nấu bằng than đá. Sau năm 1975, do nhiều khó khăn, làng nghề hoạt động cầm chừng, một số lò sản xuất lưỡi cày, lưỡi cuốc đáp ứng cho nhu cầu tại địa phương. Sau năm 1986, làng nghề hồi sinh khi các chủ lò trước đây tập hợp nghệ nhân, thợ để sản xuất gồm các cơ sở của các cá nhân: Lê Văn Út, Nguyễn Hoàng Minh, Nguyễn Văn Hươn, Nguyễn Quang Cường, Nguyễn Quang Hùng, Nguyễn Văn Định, Nguyễn Văn Năm, Trần Văn Ngọ, doanh nghiệp tư nhân Tam Hiệp Thành… Các cơ sở hoạt động theo tính chất hộ gia đình, độc lập trong tổ chức sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm, vốn liếng, thuê nhân công… Nguồn vốn ở các cơ sở thấp, không đồng đều. Nhà xưởng thường có quy mô nhỏ, mỗi tháng tổ chức nấu 2 kỳ (mỗi kỳ 12 ngày), khoảng 10 -15 tấn phế liệu. Thập niên 90 (thế kỷ XX), sản phẩm của làng nghề có chất lượng, vừa tiêu thụ mạnh trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Nhiều lò sản xuất liên tục. Năm 2007, tỉnh Đồng Nai phê duyệt đề án Khôi phục và phát triển nghề đúc gang xã Thạnh Phú huyện Vĩnh Cửu đến năm 2010 nhưng không hiệu quả. Hiện nay, làng nghề chỉ còn 5 hộ duy trì nghề với sự linh hoạt trong đầu tư cơ sở và tìm nguồn hàng để sản xuất cũng như quảng bá, tiêu thụ, làm gia công cho những công ty có nhu cầu đặt hàng


[1] Các hiện vật được trưng bày trong nội dung văn hóa Phù Nam ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh cũng như các giai đoạn Nam Bộ trước khi người Việt đến định cư, tại các di tích khảo cổ được xếp hạng di tích, có phòng triển lãm.

[2] Theo Nguyễn Thanh Lợi, Làng nghề trên đất Sài Gòn xưa đăng trong kỷ yếu Làng nghề và phát triển du lịch do Trường đại học KHXH &NV (Đại học Quốc gia TPHCM) và Trường đại học Silparkon (Thái Lan) tổ chức, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TPHCM, tr. 255 – 260.

Văn hóa ẩm thực của người Dao đỏ ở xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn (trích - kỳ 1) - Tác giả Hồ Sỹ Lập – Hội văn nghệ dân gian Việt Nam

Tác giả Hồ Sỹ Lập – Hội văn nghệ dân gian Việt Nam – sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 4/2022.

Văn hóa ẩm thực của người Dao đỏ ở xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn (trích)

2.2. Các món ăn chủ yếu

2.2.1. Các món chế biến từ cá

Canh cá:: Cá bắt được ở khe suối mang về mổ bụng moi hết ruột ra, không đánh vẩy mà giữ lại. Sau đó rửa sạch cá với muối, không chặt miếng mà để cả con cho vào nồi rồi đổ nước vào đun. Khi đun sủi tăm thì lấy lá chua hái trên rừng về rửa sạch, cắt đôi rồi cho vào nồi, cuối cùng nêm muối vào vừa ăn rồi tiếp tục đun sôi. Nếu ai ăn được cay thì thái ớt tươi vào cho thơm và bớt mùi tanh của cá.

Canh cá nấu với măng chua cũng là món ăn phổ biến ở người Dao. Cách nấu cũng giống như trên nhưng thay vì cho lá chua vào thì người dânlại dùng măng chua có sẵn trong nhà. Ở người Dao, hầu như gia đình nào cũng có măng chua ngâm sẵn trong nhà, khi nào cần dùng là có ngay.

Cá nướng:

Cá nướng cũng được làm sạch như nấu canh, tức là không đánh vẩy mà chỉ mổ bụng moi hết ruột ra, rửa sạch, để ráo nước rồi cho lên than hồng nướng chứ không dùng kẹp hay xiên như ở dân tộc khác. Cá nướng đến khi chín thì mang ra giã nhỏ cùng với muối, ớt rồi múc ra đĩa để ăn với cơm. Thường thì những loại cá nhỏ bằng 2-3 ngón tay thường được nướng còn cá to thì nấu canh.

Nếu hôm nào xúc được nhiều cá thì rửa sạch chúng, trộn với muối cho vào ống nứa, sau đó lấy lá dong bịt lại rồi dùng lạt buộc chặt. Xong xuôi, ống cá được bảo quản ở góc bếp, khi nào muốn ăn thì lấy ra nướng hoặc nấu canh theo ý thích. Đây là cách xử lý và bảo quản vốn rất phổ biến ở nhiều dân tộc sinh sống ở vùng miền núi nước ta, vừa đơn giản, vừa bảo quản được lâu mà rất tiện lợi khi cần sử dụng.

2.2.2. Các món chế biến từ thịt

Món thịt nướng

Thịt lợn nướng: thịt lợn có được từ các dịp cúng lễ, đám cưới hay dịp nào đó. Thịt lợn nướng thường là thịt nạc không có mỡ. Đây là món ăn khá phổ biến trong ẩm thực của người Dao trong các nghi lễ, nhưng do điều kiện về kinh tế nên không được chế biến thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày. Món thịt nướng của người Dao có mùi vị rất riêng và rất hấp dẫn. Đối với thịt trâu hay thịt bò nướng, gia vị chủ đạo và quan trọng nhất bao giờ cũng phải là gừng, còn với thịt lợn thì không cần đến gừng, ngoài ra còn phải có tỏi, ớt, hành củ và mác khén. Để làm món gà nướng, người ta ướp các loại gừng, tỏi, hành, muối ớt giã nhỏ cùng với lá chanh và sả. Các loại thịt đó, sau khi tẩm ướp khoảng nửa tiếng thì cho vạo nẹp tre (cắp nan) đưa lên nướng than hồng trong bếp, khi nướng trở đều để khỏi cháy. Miếng thịt nướng của người Dao rất ngọt bởi nó được cắt khúc khá to nên giữ được chất mà không bị khô. Nướng xong, gỡ thịt ra khi nào ăn thì mới thái. Gia vị chấm cho món này thường là muối ớt.

Thịt xông khói

Thường được chế biến từ thịt thú rừng khi người dân săn bắn được, hay thịt trâu, bò hoặc thịt lợn do gia đình nuôi thịt. Đây là hình thức để bảo quản thực phẩm dư thừa chưa dùng đến. Thịt được cắt thành thỏi dài, không được rửa nước mà phải để nguyên vì nếu rửa sẽ nhanh bị thối, lấy dây mây xuyên qua rồi treo lên gác bếp. Hàng ngày khi đun nấu, khói bếp và hơi nóng từ lửa sẽ làm cho miếng thịt se lại rồi khô dần. Khi cần đến, người ta đem nướng lại trên than hoặc đồ trong chõ. Món thịt khô rất phù hợp với xôi, có thể ăn trong ngày thường hoặc ăn trong ngày tết, ngày lễ.

Món thịt xào

Thịt làm món xào không nhất thiết phải là nạc, mà có thể dùng thịt ba chỉ, thịt chân giò,... Thịt được thái miếng nhỏ cho vào nồi hoặc chảo rồi xào với gừng tươi thái mỏng, sau đó nêm mắm muối vào cho vừa khẩu vị của gia đình là được.

Món thịt luộc

Đối với món thịt luộc, người Dao chỉ luộc thịt lợn bí, đây là giống lợn địa phương nuôi rất lâu lớn nên thịt nhiều nạc, săn chắc nên rất ít mỡ. Thịt của giống lợn này luộc lên rất thơm, ăn ngọt, phần mỡ ăn không ngầy. Gia vị chấm thịt lợn luộc chủ yếu là muối ớt.

Món thịt muối chua

Thịt làm món này phải là loại có cả nạc và mỡ, bởi vì như thế mới giữ được lâu và sau này khi đem thịt này ra nướng hoặc nấu canh thì không cần phải cho thêm mỡ vào. Thịt rửa sạch, để ráo, thái lát rồi cho vào xoong sau đó lấy gạo rang lên đến độ vàng cần thiết, không được rang cháy vì sợ thịt đắng, giã nhỏ cùng với muối và hạt mắc khén thành bột rồi trộn đều với thịt đã thái lát, sau đó cho thêm một ít rượu Đao vào nữa cho nhanh chua và dậy mùi thơm. Cuối cùng người ta cho thịt vào ống bương, ống nứa và nút lại bằng lá dong. Ống thịt đó được bảo quản ở góc bếp nới thoáng mát, chứ không để ngay cạnh bếp lửa lâu chua và dễ bị hỏng. Một tuần sau khi cho vào ống là có thể lấy ra dùng được, có người muốn ăn nóng thì cho vào nồi đổ thêm ít nước đun sôi lên là được hoặc có thể lấy ra xào, nướng hoặc nấu canh... thịt ướp chua có thể để dành hàng tháng mà không bị hỏng.

Món tiết canh

Tiết canh là món ăn mới có gần đây của người Dao. Tiết canh thường được làm khi người ta thịt vịt, lợn. Để làm được món tiết canh, vệc quan trọng nhất là không để tiết bị đông lại, Vì thế người Dao cho muối đã pha sẵn với một ít nước đã đun sôi để nguội, khi cắt tiết con vật, máu sẽ được khuấy đều với nước muối pha sẵn đó để nó không bị đông lại. Một số bộ phận hay dùng để làm nhân cho món tiết canh như phổi, cuống họng, gan hoặc một ít thịt mà nếu có cả xương sụn thì càng tốt. những thứ này sẽ được bằm nát, sau đó rang khô lên để nó chín. Nhân sau khi chín sẽ được múc ra bát, sau đó pha tiết với một ít nước đun sôi để nguội đã chuẩn bị trước rồi đợi đến khi nó đông lại là có thể ăn được. Đối với tiết canh ngan, vịt, thì cách làm cũng tương tự như tiết canh lợn, chỉ khác là lấy các bộ phận lòng, mề để làm nhân và cho thêm sả, (thêm ớt nếu ăn được), và một ít hạt lạc rang để món ăn được thơm hơn. Món tiết canh ngày càng trở nên phổ biến hơn trong các dịp lễ tết của người Dao. Vì thế, khi mua thịt lợn, người mua thường được múc thêm một ít tiết lợn để làm món tiết canh. Không chỉ những người đàn ông, uống rượu mới ăn tiết canh mà nhiều người phụ nữ và trẻ em cũng thích ăn món này.

Subscribe to this RSS feed

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - TRUNG TÂM HỖ TRỢ SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUÂT
Địa chỉ : 1A Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại : 04 39.745.763
Bản quyền thuộc về Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác VHNT. Yêu cầu trích nguồn khi đăng tải nội dung từ trang web này