Minh Phương

Minh Phương

Lễ hội dân tộc Cao Lan - Nghiên cứu văn nghệ dân gian của Đặng Đình Thuận – Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ

Nghiên cứu văn nghệ dân gian của Đặng Đình Thuận – Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ, sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 9/2018.

LỄ HỘI DÂN TỘC CAO LAN
(Làng Ngọc Tân - xã Ngọc Quan - huyện Đoan Hùng)

Hàng năm cứ vào ngày mùng 1 và mùng 2 tháng 2 âm lịch theo như ngọc phả của đình đã ghi rõ thì dân làng Ngọc Tân lại tổ chức lễ hội làng. Thường thì cứ vào năm chẵn của năm dương lịch thì làng lại mở hội to, mời tất cả con cháu ở xa về dự.

Mặc dù với kiến trúc không to lớn, đồ sộ như các di tích đình làng ở một số địa phương khác, lại toạ lạc trên diện tích khuôn viên không rộng. Nhưng vị trí và ý nghĩa của đình làng Ngọc Tân rất quan trọng đối với đời sống tâm linh, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Cao Lan nơi đây. Bởi không chỉ có hội làng được mở ra để tưởng nhớ ngày sinh của ba vị thành hoàng là: Cao San án sát đại vương; Cao Đào án sát đại vương và Cao Đạo án sát đại vương vào các ngày mùng 1 và mùng 2 / 2 âm lịch, mà trong năm còn có ngày 11/ 12 âm lịch là ngày tiệc của làng. Tuy không mở hội, nhưng làng vẫn tổ chức tế lễ ở trong đình để tưởng nhớ ngày hoá của các ngài. Ngoài ra, còn có rất nhiều các ngày lễ khác theo tục lệ của dân làng như cúng sóc vọng ( mùng 1, ngày rằm), các ngày cúng tế theo lễ thức nông nghiệp trồng lúa nước như: Cúng giao thừa và năm mới cùng với lễ dựng nêu và lễ hạ nêu vào các ngày 30 tết và ngày mùng 7 tháng giêng. Các ngày tết 3/3; 5/5 và rằm tháng 7 xá tội vong nhân v...v.

Ngày mùng 1/2 âm lịch, cụ từ cùng với các cụ cao tuổi trong làng ra đình từ rất sớm để bao sái đồ thờ tự và tu sắm lễ vật, quét dọn vệ sinh sạch sẽ trong, ngoài đình và chuẩn bị cúng lễ Tam vị Thành hoàng vào sáng mùng 1/2 âm lịch (ngày sóc). Lễ vật cũng được chuẩn bị và được bày đặt rất chu đáo: Lễ chay gồm có một mâm ngũ quả, xôi nếp và chè đường; lễ mặn gồm có gà trống mổ sạch luộc cả con kèm theo để nguyên cả nội tạng và một mâm xôi nếp cùng rượu trắng. Hình thức chủ yếu là ông từ thắp hương và thay mặt cho dân làng cung thỉnh với Tam vị Thành hoàng để tưởng nhớ đến ngày sinh của các vị, xin phép các vị cho làng được mở lễ hội theo lệ hàng năm; sau đó, ông Từ làm thủ tục xin âm, dương để được phép tổ chức lễ hội trong ngày mùng 2/2 âm lịch. Sau lễ cúng tam vị Thành hoàng, ông từ và một số người trong làng (gọi là các giáp viên) thụ lộc ở đình để chuẩn bị cho buổi chiều làm lễ tiếp.

Nghi thức tế lễ buổi chiều mùng 1 được làm to hơn thể hiện qua việc mổ một con lợn khoảng từ 40 đến 50 kg. Lễ vật chủ yếu được chế biến thành hai món: Thịt lợn nướng; thịt lợn luộc được xếp lên các mâm đưa vào đình cúng tế. Còn để lại nửa con, đến khi làm lễ xong sẽ chia nhỏ, đều cho các giáp viên vắng mặt trong buổi lễ và thụ lộc hôm ấy.

Lễ thức cúng Tam vị Thành hoàng và các Thần linh thổ công bản thổ của làng được tiến hành như sau: Làng cử ra ba ông( trong đó có ông từ), là những người cao tuổi, đức độ, vợ chồng song toàn, không có tang gia, có đủ cả con trai, con gái và có hiểu biết về mọi mặt để đảm nhiệm công việc tế lễ,tổ chức các hoạt động của hội làng. Trang phục của ban tế đình Ngọc Tân chủ yếu là áo dài đen( bằng vải dân tộc dệt nhuộm chàm đen), quần vải trắng, đầu đội khăn xếp. Giữa chủ tế và phụ tế không có sự khác nhau về trang phục. Chỉ phân biệt được chủ tế với phụ tế qua vị trí đứng ở giữa, cao hơn hai bồi tế. Hình thức tế ở đình Ngọc Tân cũng đơn giản, không cầu kỳ, không kéo dài. Tuy vậy, nội dung và hình thức tế lễ cũng khá đầy đủ và được tiến hành rất nghiêm trang, tôn nghiêm với đầy đủ lễ mặn, lễ chay được chuẩn bị rất chu đáo và cẩn thận.

Lễ mặn( xôi, gà, rượu). Mỗi một năm, làng giao cho 6 hộ gia đình trong làng luân phiên nhau nuôi gà, đồ xôi để mang ra đình làm lễ cúng Thành hoàng làng. Các hộ được giao làm cỗ, phải chú ý nuôi gà làm sao cho thật đẹp, gà phải béo, lông mượt, màu sắc sặc sỡ, chỉ cho ăn ngũ cốc, kiêng cho ăn tạp trong những ngày chuẩn bị mổ để làm lễ. Mỗi con gà nặng ít nhất từ 1,2 đến 1,5 kg. Gạo nếp để đồ xôi làm lễ cũng vậy, phải được sàng sẩy thật sạch sẽ, gạo trắng, hạt đều, không có thóc, sạn với số lượng 4 kg thành xôi. Sáu gia đình làm cỗ vào chiều ngày mùng 1 / 2 âm lịch tại gia đình. Khi có ba hồi trống do ông thủ từ dóng lên từ cửa đình làng thì các hộ bắt đầu tiến hành làm lễ như mổ gà, đồ xôi... Thường là từ giờ Thân ( 3 giờ) trở đi. Sau khoảng một giờ đồng hồ, ông từ lại dóng lên ba hồi trống để báo cho các gia đình biết thời gian làm cỗ đã hết. Các gia đình phải chuẩn bị mang cỗ ra đình cho ông từ và ban tế chuẩn bị cúng tế. Các gia đình nhận được hiệu lệnh trống khẩn trương hoàn chỉnh lễ vật, lần lượt gánh lễ ra đình. Ông từ đình và mọi người có mặt ở đình nêu những nhận xét về hình thức, chất lượng của các lễ vật rồi sơ bộ đánh giá xem cỗ của nhà nào đẹp nhất, trông hấp dẫn nhất, đảm bảo số lượng đã quy định. Sáu cỗ lễ do sáu gia đình mang đến đều được ông từ và ban tế xếp lên bàn thờ của thượng đình. Ai mang lễ vật đến trước thì được xếp trong cùng, lễ vật đến sau thì xếp ở ngoài.

Nhóm mổ lợn cũng nhanh tay, khẩn trương hoàn thành việc sắm lễ. Chiếc thủ lợn được làm sạch sẽ, luộc chín và được dâng lên đặt ở chính giữa thượng đình. Các món khác như thịt luộc, thịt nướng, cỗ nội tâm cũng được bày lên bàn thờ để ông từ làm lễ cúng.

Lễ vật đã được chuẩn bị xong, chu tất. Đến đúng 6 giờ chiều (giờ chính Dậu). Ông từ và hai ông phụ từ, ăn mặc chỉnh tề trong bộ áo the, khăn xếp, quần trắng tiến hành trải chiếu xuống nền đình để hành lễ. Trước khi cúng tế, ông từ tiến hành ra rượu, lên đèn, lên hương,đặt trầu cau lên ban thờ chính, đốt nến và kiểm tra thật cẩn thận lần cuối. Xong xuôi đâu đấy, ông từ và ban tế vào vị trí. Bên ngoài cửa đình, các cụ cho đánh một hồi trống dài để báo cho dân làng biết giờ cúng tế Tam vị Thành hoàng làng bắt đầu. Sau khi hồi trống chấm dứt, ông từ và ban tế bắt đầu phủ phục lễ bái ba lần để nghinh báo Tam vị thành hoàng và các bậc thần linh. Sau mỗi một nội dung khấn vái của thủ từ, các phụ từ làm nhiệm vụ bồi tế lại tiếp tửu (ra rượu). Mỗi lần như thế, ông từ lại phải phủ phục trước thượng đình ba lần để thay đổi nội dung khấn. Sau ba lần cúng, ông từ và ban tế kết thúc phần cúng lễ buổi chiều ngày 1 / 2 âm lịch với một hồi trống dài để báo hiệu cho toàn thể dân làng biết nghi thức tế lễ đã xong, mọi người trong làng chuẩn bị ra đình mà thụ lộc. Ai bận việc không ra được thì những người trong ban tổ chức có trách nhiệm để phần cho và ra mang về nhà hưởng lộc. Từ lúc này trở đi, không khí trong đình náo nhiệt hẳn lên do mỗi nguời một việc để sắp cỗ, bố trí chỗ ngồi... Ông từ và ban tế ngồi ở mâm trong cùng, sát với thượng cung. Sau đó đến các giáp viên ngồi lần lượt theo lứa tuổi từ trong ra ngoài, từ tuổi cao xuống thấp. Các mâm hai bên là chỗ ngồi của các giáp viên trẻ.

Sau khi thụ lộc xong, mọi giáp viên tập trung vào việc dựng cây còn trước cửa đình để chuẩn bị cho hội ném còn vào ngày mùng 2 / 2.

Trong đêm hôm đó, mọi người mang chăn chiếu ra ngủ ở đình để sáng mai kịp dậy cho đúng giờ. Không khí ở đình đêm hôm ấy thật vui vẻ, đầm ấm. Mọi người tiếp tục chuẩn bị các dụng cụ cần thiết để mổ lợn đen vào 3 giờ sáng. Khoảng vào giờ Tý ( 11 giờ đêm), gia đình được phân công nuôi lợn lễ, khiêng lợn đến đặt ở giữa sân đình, trước cửa đình, để đầu lợn quay vào chính giữa đình và giao lễ cho ông từ trước sự chứng kiến của mọi người. Ông từ tiến hành kiểm tra kỹ từ chân lên đầu xem con lợn đã đen tuyền chưa, khi thấy đủ tiêu chuẩn rồi thì bắc cân lên cân, lợn phải nặng từ 40 đến 50 kg, hình thức phải đẹp, lông mượt, béo cân đối, đầy đặn....

Đến giờ Dần( 3 giờ sáng), mọi người chuẩn bị sẵn sàng, chờ ông từ làm lễ xin phép Thành hoàng và các bậc thần linh xong rồi mới được mổ. Ông từ cùng với hai phụ từ đứng nghiêm trang trước thượng điện để hành lễ. Lần thứ nhất, ông từ cúng khấn xin phép tam vị thành hoàng làng và các thần linh cho phéo dân làng Ngọc Tân đựơc mổ lợn đen để làm lễ cúng tế và được mở hội làng vào sáng ngày 2 / 2 âm lịch. Sau khi khấn vái xong, ông từ xin quẻ âm dương. Nếu linh ứng nhất âm, nhất dương là được. Nếu không được thì phải xin lại. Nếu đến lần thứ ba mà vẫn không được thì phải đi tìm con lợn đen tuyền khác, chứ nhất định họ không mổ con lợn đó nữa vì không được các vị thành hoàng, thần linh chấp thuận. Lần thứ hai, ông từ khấn vái xin phép được chọn người chọc tiết và mổ lợn. Thủ tục cũng xin âm dương như lần một, nếu một lần không được thì phải làm lần thứ hai, nếu lần thứ hai không được lại làm tiếp lần thứ ba, nếu vẫn không được thì ông từ phải xin phép cho đổi người khác.

Sau khi các thủ tục trên kết thúc, một số giáp viên khoẻ, cùng thanh niên đã được làng chọn cử giữ chặt con lợn để cho ông đã được phép chọc tiết lợn rồi mọi người tiến hành mổ lợn. Theo quy định của làng, sau khi lợn đã được mổ ra, làng lấy 20 kg móc hàm nhưng dứt khoát phải có cả phần cổ( còn gọi là khoanh bí). Phần nậm lợn và phần nội tâm phải trả cho đình để làm lễ. Phần còn lại, người nuôi lợn được mang về gia đình để cúng lễ gia tiên và được sử dụng coi như đó là lộc của làng ban cho.

Lễ vật được chuẩn bị xong, gồm có thịt lợn nướng, thịt lợn luộc( bao giờ cũng chỉ có hai món, không bao giờ có món khác) được sắp xếp lên ban thờ của thượng cung; Ngoài ra còn có các lễ chay như : Xôi, chè, oản, hoa quả( ngày nay còn có cả bánh kẹo nữa), kèm theo hương nhang, đèn nến, hoa tươi, tửu, nước.... Cho đến giờ Thìn(7 giờ trở đi), ông từ và hai ông phụ từ bắt đầu tiến hành cúng lễ xin phép các vị thành hoàng và các vị thần linh để làng được mở lễ hội truyền thống theo tục lệ hàng năm.

Buổi lễ cúng tế xin phép mở hội làng diễn ra qua ba tuần tiếp tửu. Ông từ phủ phục trước thượng cung, các ông hầu tế phải tiếp rượu, tiếp hương... để ông từ dâng lên ban thờ sau mỗi lần cung thỉnh. Kết thúc ba lần cúng tế, ông từ đánh ba hồi trống dài( trống đặt ở hiên đình) để thông báo cho mọi người ra dự hội làng đã khai hội với các trò chơi dân gian truyền thống của làng Ngọc Tân như: Ném còn, kéo co, bắn nỏ…để không khí ngày hội thêm náo nhiệt, hấp dẫn.

* Ném còn: Mọi người tập trung rất đông trước sân đình, xung quanh cây còn đã được dựng lên từ chiều mùng một, tham gia trò chơi này chủ yếu là các nam, nữ thanh niên. Dân làng tụ tập rất đông để hò reo, cổ vũ cho những người chơi. Tiếng trống liên tục được nổi lên thôi thúc, rục rã mọi người. Khi ông từ cầm 12 quả còn vừa được cúng lễ ở trong đình ra( con số 12 tượng trưng cho 12 tháng trong năm) tung cao vào giữa đám đông thanh niên đang đứng tập trung ở trước sân đình. Họ tranh lấy quả còn và nhanh chóng dãn về hai phía của cây còn để chọn khoảng cách thích hợp ném còn đảm bảo trúng đích, quả còn có đủ lực bay qua tờ giấy (mặt nguyệt) và rơi xuống đất. Cuộc chơi rất náo nhiệt, các quả còn lao lên vun vút từ hai phía, mọi người xô đẩy tranh nhau quả còn mỗi khi còn rơi gần đến mặt đất. Bên ngoài sân, mọi người hò reo cổ vũ cho những người ném cố gắng ném thủng vòng tròn mặt nguyệt. Người ném trúng đích vinh dự được nhận phần thưởng của làng do ông từ trao cho tận tay người đã thắng cuộc. Giải thưởng cho nguời thắng cuộc trị giá bằng tiền mặt được trích từ quỹ của đình, tuy giá trị không lớn (chỉ 10 đến 20 nghìn đồng), nhưng có ý nghĩa rất lớn về mặt tinh thần. Người trúng thưởng sẽ được giữ quả còn mang về đặt lên ban thờ gia tiên để cầu may cho cả gia đình.

* Kéo co: Sân chơi kéo co vẫn là nơi vừa diễn ra ném còn. Họ lấy cột cây còn làm tâm điểm giữa hai bên. Dụng cụ để chơi là một chiếc dây thừng to bằng ngón chân cái, bện bằng dây đay đã được chuẩn bị sẵn, Ở giữa sợi dây buộc một giải vải đỏ làm điểm chuẩn và đặt ngay cột còn. Chủ trò tay cầm một ngọn cờ đuôi nheo màu đỏ, miệng ngậm còi chạy dọc theo dây để bố trí quân chơi cho đều nhau. Sau khi thấy số quân đã cân đối, chủ trò giơ cao cờ, miệng thổi một hồi còi dài đồng thời tay phất cờ thật mạnh ra hiệu cuộc chơi bắt đầu. Hai bên bắt đầu trần lực ra để kéo dây cố giành phần thắng về mình. Tiếng hò reo vang dậy không ngớt của những người cổ vũ, một không khí náo nhiệt bao trùm khắp sân hội. Sau một thời gian đua sức hợp lực, rồi một bên kém hơn cũng phải thua cuộc, họ bị kéo dạt về phía đối phương, không thể nào chống lại nổi sức mạnh của bên chiến thắng. Bên thua đành bỏ dây, người thì ngã xuống đất, người thì ngã chồng lên nhau, nhưng miệng thì vẫn reo hò, cười nói ầm ĩ và chấp nhận cuộc thua.

Cứ như vậy, chủ trò tổ chức lấy ba lượt kéo và tính điểm. Bên nào thua hai lần hoặc cả ba lần thua là bên thua cuộc. Ngược lại, bên nào thắng hai lần hoặc cả ba lần thắng thì là bên thắng cuộc. Bên thắng sẽ được nhận phần thưởng của ban tổ chức đó là những túi bánh kẹo, hoa quả đã được thắp hương, cúng tế trong đình mang ra thụ lộc, khao quân, ban thưởng.

* Thi bắn nỏ: Hội thi bắn nỏ được tổ chức trên một bãi đất rộng, cách đình làng không xa. Để đảm bao an toàn, hội thi đặt bia cách một tràn ruộng lúa khoảng 30 m, những xạ thủ đứng ở một phía cạnh sân kéo co. Hầu hết những người tham gia đều có nỏ riêng để quen với tay nỏ bắn cho trúng đích. Bia được đón chặt xuống đất bằng một cọc tre, bia có hình thù một nửa người giống như bia quân sự được dán vào tấm cót. Trên mặt bia có các vòng tròn tính điểm từ cao đến thấp theo chiều từ trong ra ngoài. Tổng số có 10 vòng tương đương với 10 điểm. Không như trò chơi dân gian ném còn, kéo co, trò chơi bắn nỏ không náo nhiệt bằng. Ở đây, không khí căng thẳng và thi đua hiện rõ trên những nét mặt các tay nỏ. Kết thúc cuộc chơi, ban tổ chức xem lại danh sách kết quả bắn của các tay nỏ để đánh giá kết quả, tìm ra người đoạt giải nhất, nhì, ba để làng trao phần thưởng và công bố thành tích của ba tay nỏ đoạt giải để mọi người dự hội biết. Phần thưởng là một số tiền nhỏ được trích ra từ quỹ của đình, kèm theo một chút hoa quả, kẹo bánh là lộc đã được thắp hương trong đình.

Ngoài ba trò chơi dân gian trên, làng Ngọc Tân còn có trò chơi đi cà kheo, nhưng rất tiếc đến nay trò chơi này đã bị mai một, không còn ai chơi nữa.

*Hát dân ca trong lễ hội làng Ngọc Tân: Trong lễ hội làng Ngọc Tân, sau các trò chơi dân gian là hình thức hát dân ca của dân tộc Cao Lan thông qua hình thức hát đối đáp giao duyên chủ yếu giữa nam và nữ mà dân tộc Cao Lan gọi là hát Sình ca ( hay Sịnh ca). Mọi người rất say mê hát Sình ca và cũng từ lâu đời, Sình ca đã trở thành môn nghệ thuật dân gian độc đáo của đồng bào Cao Lan ở Ngọc Tân. Nội dung hát Sình ca rất đa dạng và phong phú như: Sình ca ( Tình ca- nam nữ giao duyên); Vèo ca ( Mọi người hát có ý gọi mời nhau cùng tham gia hát cho vui ); Ú núng ca ( Hát để ru em hoặc ru con ngủ ); Sình kích ca ( Hát trong dịp tổ chức lễ hội); Sình lục tờu ( Hát trong khi tổ chức cúng lễ ); Hát Sình ca được tổ chức ở nhiều thời điểm khác nhau: Hát trong đám cưới; Hát Sình ca về ban ngày; Hát sình ca về ban đêm…Hát Sình ca về ban đêm được tổ chức chủ yếu ở trong nhà, mọi người ngồi hát đối đáp. Qua mỗi một đêm nội dung hát lại thay đổi khác nhau. Cứ như thế trong vòng 12 đêm liền. Hát Sình Ca về ban ngày ( vèo ca ) chủ yếu là của nam nữ thanh niên mới trưởng thành, đang tuổi tìm hiểu, yêu đương để tranh thủ có dịp làm quen với nhau hoặc đã quen nhau rồi, thì có điều kiện thuận lợi để tìm hiểu và thổ lộ tình cảm của mình với người bạn tình đã “ thầm yêu, trộm nhớ ”. Hát Sình ca về ban ngày còn có các thể loại hát khác được hát trong dịp làng mở hội ( Tiếng dân tộc gọi là Sình kích đám tăng). Hình thức hát này gắn với nghi lễ, phong tục, tín ngưỡng của người Cao Lan, nó còn kèm theo cả những điệu múa, nhảy mô phỏng các nghi thức cúng lễ mang tính chất cổ xưa, phản ánh tín ngưỡng nguyên thuỷ như: Hát mô tả lại cảnh di cư, khai phá rừng núi và lập làng, hát diễn tả lại những động tác lao động sản xuất của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước kèm theo những lễ tục cầu mùa, cầu "mưa thuận, gió hoà”.v..v.

Có thể nói, lễ hội đồng bào dân tộc Cao Lan với các trò chơi dân gian vừa mang tính đặc sắc, vừa phản ánh truyền thống thượng võ độc đáo của hội làng Ngọc Tân nói riêng và hội làng ở Phú Thọ nói chung còn được bảo lưu đến ngày nay đã góp phần làm cho truyền thống văn hoá dân gian thêm phong phú, đậm đà màu sắc của dân tộc Cao Lan đã phản ánh sinh động tinh thần thượng võ, ý thức rèn luyện thân thể, luyện tập thể thao vừa để tăng thêm sự hấp dẫn cho trò diễn hội làng vừa để có sức khoẻ rẻo rai mà lao động sản xuất xây dựng làng xóm và chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cuộc sống thanh bình cho cộng đồng. Đó là ý nghĩa nhân văn sâu sắc bao trùm toàn bộ các hoạt động văn hoá của lễ hội dân gian làng Ngọc Tân.

Trại sáng tác Đà Nẵng tháng 9/2018

Khai mạc Trại sáng tác kịch bản phim Hoạt hình Nha Trang 2018

Ngày 5/10/2018, tại Nhà sáng tác Nha Trang, đã diễn ra buổi khai mạc Trại sáng tác kịch bản phim Hoạt hình do Hãng phim Hoạt hình Việt Nam phối hợp với Hội Điện ảnh và Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức. Tham dự khai mạc có bà Nguyễn Thị Hồng Ngát – Phó Chủ tịch thường trực Hội Điện ảnh Việt Nam, bà Hoàng Thị Hương Thơm – Phó Giám đốc nhà sáng tác Nha Trang, bà Trần Thị Thu Hiền – Chủ tịch Hội đồng quản trị Hãng phim Hoạt hình Việt Nam cùng toàn thể Trại viên là các cộng tác viên có đề cương được chọn dự  trại lần này.

khaimachoathinht10 2018

Trại sáng tác kịch bản phim hoạt hình Nha Trang 2018 do Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật và Hội Điện ảnh Việt Nam tài trợ được khởi động từ tháng 15/4/2018. Kết thúc thời hạn nhận bài đã thu được 95 đề cương kịch bản tham dự. Sau nhiều vòng tuyển chọn, Hội đồng xét tuyển kịch bản đã lựa chọn được 15 đề cương kịch bản của 15 tác giả tham dự Trại. Theo kế hoạch, trong thời gian sinh hoạt tại Trại, các Trại viên sẽ tham gia nhiều hoạt động chuyên môn: xem phim và đọc kịch bản của Hãng phim Hoạt hình Việt Nam sản xuất trong năm 2017; đọc, nghiên cứu, trao đổi, thảo luận về 15 kịch bản tham dự Trại dưới sự chủ trì của các biên tập viên của Hãng để cùng nhau sửa chữa, nâng cao chất lượng kịch bản; tham quan dã ngoại thực tế sáng tác…

Trại sáng tác kịch bản phim hoạt hình Nha Trang 2018 có thành phần tham dự khá phong phú. Ngoài một số nhà biên kịch đã cộng tác với Hãng nhiều năm như Nhà biên kịch Đinh Thiên Phúc, Phạm Dũng, Dương Ngọc, Phạm Đình Hải… Trại còn qui tụ được đông đảo các cây bút trẻ hiện vẫn đang ngồi trên giảng đường đại học như Đỗ Thế Mạnh - sinh viên Sân khấu Điện ảnh, Trần Thị Thanh Tâm - Đại học Văn hóa Hà Nội…

Phát huy hiệu quả của những Trại sáng tác kịch bản hoạt hình những năm gần đây, Hãng phim Hoạt hình Việt Nam luôn chủ động cử các cán bộ biên tập dày dặn kinh nghiệm theo sát Trại, phối hợp chặt chẽ với các Trại viên, cùng trao đổi, bàn bạc sửa chữa, thực hiện công tác biên tập để hoàn thiện và nâng cao chất lượng kịch bản dự Trại.

Với sự kết hợp của các gương mặt Trại viên có nhiều kinh nghiệm và các cây viết đầy tiềm năng, cùng với các biên tập nhiều kinh nghiệm của Hãng như nhà biên kịch Phạm Thanh Hà, nhà biên kịch Bùi Hoài Thu, nhà biên kịch Đàm Thùy Dương, Hãng phim Hoạt hình Việt Nam và Hội Điện ảnh kỳ vọng kết thúc Trại Nha Trang 2018 sẽ có nhiều kịch bản chất lượng tốt đưa vào sản xuất, bắt kịp chỉ tiêu của Trại sáng tác Đà Lạt 2017 với 70% kịch bản đang được triển khai trên dây chuyền sản xuất.

Nguồn: thegioidienanh.vn

Khai mạc Trại sáng tác kịch bản phim Hoạt hình Nha Trang 2018

Ngày 5/10/2018, tại Nhà sáng tác Nha Trang, đã diễn ra buổi khai mạc Trại sáng tác kịch bản phim Hoạt hình do Hãng phim Hoạt hình Việt Nam phối hợp với Hội Điện ảnh và Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức. Tham dự khai mạc có bà Nguyễn Thị Hồng Ngát – Phó Chủ tịch thường trực Hội Điện ảnh Việt Nam, bà Hoàng Thị Hương Thơm – Phó Giám đốc nhà sáng tác Nha Trang, bà Trần Thị Thu Hiền – Chủ tịch Hội đồng quản trị Hãng phim Hoạt hình Việt Nam cùng toàn thể Trại viên là các cộng tác viên có đề cương được chọn dự  trại lần này.

khaimachoathinht10 2018

Trại sáng tác kịch bản phim hoạt hình Nha Trang 2018 do Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật và Hội Điện ảnh Việt Nam tài trợ được khởi động từ tháng 15/4/2018. Kết thúc thời hạn nhận bài đã thu được 95 đề cương kịch bản tham dự. Sau nhiều vòng tuyển chọn, Hội đồng xét tuyển kịch bản đã lựa chọn được 15 đề cương kịch bản của 15 tác giả tham dự Trại. Theo kế hoạch, trong thời gian sinh hoạt tại Trại, các Trại viên sẽ tham gia nhiều hoạt động chuyên môn: xem phim và đọc kịch bản của Hãng phim Hoạt hình Việt Nam sản xuất trong năm 2017; đọc, nghiên cứu, trao đổi, thảo luận về 15 kịch bản tham dự Trại dưới sự chủ trì của các biên tập viên của Hãng để cùng nhau sửa chữa, nâng cao chất lượng kịch bản; tham quan dã ngoại thực tế sáng tác…

Trại sáng tác kịch bản phim hoạt hình Nha Trang 2018 có thành phần tham dự khá phong phú. Ngoài một số nhà biên kịch đã cộng tác với Hãng nhiều năm như Nhà biên kịch Đinh Thiên Phúc, Phạm Dũng, Dương Ngọc, Phạm Đình Hải… Trại còn qui tụ được đông đảo các cây bút trẻ hiện vẫn đang ngồi trên giảng đường đại học như Đỗ Thế Mạnh - sinh viên Sân khấu Điện ảnh, Trần Thị Thanh Tâm - Đại học Văn hóa Hà Nội…

Phát huy hiệu quả của những Trại sáng tác kịch bản hoạt hình những năm gần đây, Hãng phim Hoạt hình Việt Nam luôn chủ động cử các cán bộ biên tập dày dặn kinh nghiệm theo sát Trại, phối hợp chặt chẽ với các Trại viên, cùng trao đổi, bàn bạc sửa chữa, thực hiện công tác biên tập để hoàn thiện và nâng cao chất lượng kịch bản dự Trại.

Với sự kết hợp của các gương mặt Trại viên có nhiều kinh nghiệm và các cây viết đầy tiềm năng, cùng với các biên tập nhiều kinh nghiệm của Hãng như nhà biên kịch Phạm Thanh Hà, nhà biên kịch Bùi Hoài Thu, nhà biên kịch Đàm Thùy Dương, Hãng phim Hoạt hình Việt Nam và Hội Điện ảnh kỳ vọng kết thúc Trại Nha Trang 2018 sẽ có nhiều kịch bản chất lượng tốt đưa vào sản xuất, bắt kịp chỉ tiêu của Trại sáng tác Đà Lạt 2017 với 70% kịch bản đang được triển khai trên dây chuyền sản xuất.

Nguồn: thegioidienanh.vn

Chùm thơ các tác giả Vân Anh và Văn Quyền - Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Nghệ An

Thơ Vân Anh - Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Nghệ An; sáng tác tại Nhà sáng tác Nha Trang tháng 9/2018.

ĐỘC THOẠI TRƯỚC BIỂN

Mọc từ lòng đất sâu
sống cùng chon von núi vời xa
Thác xả thân sóng tung trắng xóa nở ra dòng suối hiền hòa...
Tự xẻ cây, bào đá
Suối gom nhau thành Sông
Sông lọc máu đỏ ngầu dâng phù sa
nuôi phồn thực đôi bờ xanh sự sống ...
Cửa Biển - Nhũng đời sông hướng vọng
Những đời sông tan chảy đam mê miên viễn tình nồng .
Những giọt khát biêng biếc ào ạt
từ những dãy núi, từ những cao nguyên, từ những đại ngàn
Những giọt khát biêng biếc âm thầm
từ những gò bãi, từ những cánh đồng, từ những thung lũng miên miết, căng tức trái tim Biển .
Có dữ dội, cuồng say của Thác
Có dịu dàng, lãng mạn của Suối
Có nhẫn nại, từ tâm của Sông
Bầu sữa Biển nhân hậu, bao dung nuôi lớn Con Người.
Cho mặn mòi những vần thơ...
Cho bí ẩn những bức họa...
Cho thăng giáng ngân rung những khúc ca ...
Trước Biển Ta tự mình thanh lọc
Trầm lắng hóa ngọc trai
Nông nổi thành bọt bã!
*******

Thơ Văn Quyền - Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Nghệ An; sáng tác tại Nhà sáng tác Nha Trang tháng 9/2018.

MẸ VÀ CHIẾC BA LÔ CON CÓC

Mẹ còn giữ chiếc ba lô con cóc,
Thường chọn ngày nắng nỏ lại đem phơi,
Là kỷ vật của một thời chiến trận,
Duy nhất còn lưu lại của Cha tôi.
 
Cha chiến đấu trong bưng biền rừng nước,
Đã hy sinh chẳng biết tháng ngày nào.
Chiếc ba lô, may còn đồng đội giữ,
Thân xác vùi chẳng thể biết nơi nao!
 
Cứ mỗi năm, ngày Thương binh Liệt sỹ,
Mẹ coi như là ngày giỗ Cha tôi.
Chiếc ba lô Mẹ thường mang ra ngắm,
Cũng là thay được thấy bóng hình người.

Chùm thơ Hoàng Cẩm Thạch - Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Nghệ An

Thơ Hoàng Cẩm Thạch – Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Nghệ An; sáng tác tại Nhà sáng tác Nha Trang tháng 9/2018.

NHẪN CỎ

Như màu tím hoa Sim
Dấu tình yêu thầm kín
Chưa nói lời ước hẹn
Mà bồi hồi trong tim
 
Truông Bồn mùa trăng lên
Tím màu hoa chung thuỷ
Một tình yêu bình dị
Lớn dần trong khói bom
 
Gập ghềnh phía hoàng hôn
Trao nhau lời nhẫn cỏ
Lời yêu thương thầm ngỏ
Tiếng mưa rơi thầm thì
 
Em tiễn đoàn quân đi
Anh lao vào trận đánh
Từng đoàn xe ra trận
Ta đợi chờ tin nhau ...

       Trại sáng tác Nha Trang, tháng 9/2018

LỜI RU TRUÔNG BỒN

Tiếng ve ru khản trời chiều
Mẹ tôi đi giữa liêu xiêu gió lào
Đường cày quăng quật thấp cao
Nắng nung ngọn lửa.
Nắng cào rặng tre.
 
Lời ru nghẹn đắng đêm hè
Chạm vào nỗi nhớ trăng nhoè bóng mây
Truông Bồn đạn xới bom cày
Lá thơm gội mái tóc dày cỏ non
 
Rừng xanh che tấm ô tròn
Kẽo cà tiếng võng ru con giấc nồng
Lời ru vỗ sóng ven sông
Một thời con gái căng hồng ước mơ
Hoa gạo đỏ mắt đợi chờ
Vầng trăng thao thức ầu ơ... Truông Bồn ...

Bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Tiền Giang tại Nhà sáng tác Đà Nẵng

Ngày 5/10/2018, tại Nhà sáng tác Đà Nẵng đã diễn ra buổi bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật 2018 của Hội văn học nghệ thuật Tiền Giang.

Tham dự buổi bế mạc có ông Lê Ngân – Phó chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Tiền Giang; ông Nguyễn Song Hiển – Giám đốc Nhà sáng tác Đà Nẵng và các thành viên tham dự Trại sáng tác.

bemactiengiangt9 2018

Trại sáng tác văn học nghệ thuật Tiền Giang 2018 bao gồm 15 trại viên với các chuyên ngành: văn học, âm nhạc và nhiếp ảnh. Trong suốt thời gian dự trại, các thành viên đã được trao đổi, học hỏi lẫn nhau về kinh nghiệm sáng tác, phê bình, đánh giá các tác phẩm để nâng cao chất lượng của từng tác phẩm. Ngoài ra, các trại viên còn được tham dự các buổi đi thực tế tại thành phố Huế, bán đảo Sơn Trà, làng nghề điêu khắc đá Non Nước…bổ sung thêm kiến thức thực tế và tăng thêm cảm xúc sáng tác.

Tại buổi bế mạc, ông Lê Ngân đã thẳng thắn nhận định về chất lượng tác phẩm đã được sáng tác trong thời gian ở Trại. Số lượng tác phẩm lớn, đạt chỉ tiêu theo đề cương trước khi dự trại. Các tác giả có nhiều tìm tòi, khám phá, làm mới tác phẩm và cảm xúc, thể hiện qua chất lượng của các tác phẩm. Ông Lê Ngân cũng không quên gửi lời cám ơn tới cán bộ nhân viên Nhà sáng tác Đà Nẵng đã phục vụ với tinh thần chu đáo, nhiệt tình, đảm bảo an ninh, trật tự để góp phần cho Trại sáng tác thành công tốt đẹp.

bemactiengiangt9 2018 1
Ông Lê Ngân trao tác phẩm cho ông Nguyễn Song Hiển

Trại sáng tác lần này có 68 tác phẩm: 31 tác phẩm thơ, 3 tác phẩm văn xuôi, 31 tác phẩm nhiếp ảnh và 3 tác phẩm âm nhạc.

Hát Xoan Phú Thọ - Nghiên cứu nghệ thuật dân gian của Đặng Đình Thuận - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ

Nghiên cứu nghệ thuật dân gian của Đặng Đình Thuận - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ, sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 9-2018.

HÁT XOAN PHÚ THỌ - NÉT RIÊNG BIỆT VỀ TỔ CHỨC VÀ NGHỆ THUẬT TRÌNH DIỄN

          Hát Xoan là lối hát dân gian được bắt nguồn từ tín ngưỡng truyền thống thờ cúng Thần linh, Thành hoàng và các Vua Hùng gắn với không gian thiêng là các ngôi miếu cổ và đình làng, nên Hát Xoan còn được gọi là " Hát cửa đình, Khúc môn đình, ca môn đình". Vì vậy, về tổ chức các phường Xoan; lời ca và nghệ thuật trình diễn của Hát Xoan luôn mang tính chất của tín ngưỡng phồn thực đặc trưng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là quan niệm Âm- Dương; Nam- Nữ; cầu mong sự sinh sôi phát triển giống nòi và được các bậc Thần linh, Thành hoàng và các Vua Hùng ban cho nhiều may mắn, tốt lành trong lao động sản xuất và trong đời sống hàng ngày của cộng đồng cư dân nông nghiệp. Trong hát Xoan, nghệ thuật múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau tạo thành thể thống nhất, dùng điệu múa minh họa nội dung cho lời ca. Các tiết mục múa hát thường sắp xếp theo trình tự nhất định. Mở đầu là 4 tiết mục có tính nghi lễ mang đậm dấu ấn tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng trung du Phú Thọ " rừng cọ đồi chè", với nội dung khấn nguyện, cầu mong trời đất phù hộ cho "mưa thuận, gió hòa" để được mùa màng tươi tốt, bội thu. Sau đó là các lời ca, điệu múa mô tả cảnh lao động sản xuất " tứ dân chi nghiệp" (sỹ, nông, công, thương: Dạy học, trồng lúa, đánh cá, trồng bông dệt vải, săn bắt...) Đây là những bài ca cổ, chủ yếu hát nói hoặc ngâm ngợi; theo thứ tự nghi thức tín ngưỡng thờ cúng truyền thống ( có thể xuất phát từ tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng: giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám. Tiếp theo là phần hát cách (còn gọi là quả cách). Trong phần này, ông Trùm hoặc một kép chính giở sách ngân nga 14 bài thơ nôm dài với giọng phụ họa của các cô đào đứng ở phía sau. Mười bốn quả cách trong hát Xoan là những áng thơ khuyết danh do nhân dân sáng tác và được lưu truyền trong các phường Xoan gốc với các đề tài khác nhau như: mô tả cảnh lao động, sinh hoạt ở nông thôn vùng trung du, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên vùng trung du với những nét đặc trưng của địa hình đồi gò, kể các tích chuyện xưa liên quan đến các Vua Hùng dựng nước. Sau phần hát cách đến các tiết mục có tính chất nghệ thuật dân gian với nội dung mang đậm yếu tố trữ tình, mang âm hưởng của những bài dân ca, ví giao duyên, hát trống quân đặc trưng của vùng Đất Tổ. Mỗi tiết mục nối tiếp nhau ở đây thường gắn với những động tác và đội hình múa, hoặc lối diễn mang tính chất hoạt cảnh như một liên khúc: hát bợm gái, bỏ bộ, xin huê, đố huê, đố chữ, gài ( cài) huê, hát đúm, mó ( giã) cá... Sức sống của hát Xoan chính là bởi Hát Xoan là loại hình hát nghi lễ gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương kết hợp với hát giao duyên nam, nữ ( hát hội), vì vậy nó được tồn tại lâu dài và được nhiều thế hệ trong các phường Xoan yêu thích truyền dạy và cùng bảo tồn đến ngày nay bởi một số nét đặc trưng riêng biệt sau đây của Hát Xoan Phú Thọ:

1- Tổ chức các phường Hát Xoan:
 Các phường Xoan có tổ chức hết sức chặt chẽ và theo nguyên tắc dựa vào liên kết dòng họ, gia đình và khu vực cư trú. Những người đi hát Xoan thường là cùng chung sống trong một gia đình hay có mối quan hệ họ hàng " phi nội tắc ngoại", sống cùng làng xóm và tổ chức thành phường truyền dạy nhau theo tính chất, hình thức văn nghệ dân gian và khép kín trong những người cùng làng, phần lớn có quan hệ họ hàng với nhau. Đây là nguyên nhân để tạo sự khác biệt, đặc trưng bí truyền của mỗi phường Xoan. Người đứng đầu một phường Xoan (hay họ Xoan) phải là người cao tuổi và là đàn ông, có uy tín về đạo đức và chuyên môn gọi là ông Trùm ( chính vì gắn với tín ngưỡng phồn thực nên trùm phường Xoan nhất thiết phải là đàn ông). Ông Trùm là một người có kinh nghiệm và nắm chắc về nghề nghiệp biết giao tiếp và biết chữ Hán - Nôm để hát dẫn một số bài dài được chép bằng văn tự. Các phường viên trong phường thì gọi con trai là Kép, con gái là Đào. Mỗi phường Xoan có khoảng từ 15 đến 18 người. Nam mặc áo the, khăn xếp, quần trắng, guốc mộc; nữ mặc áo năm thân, khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm điều, thắt lưng bao, dải yếm các mầu, quần lụa, đeo xà tích, đi guốc mộc. Những làng có người đi Hát Xoan kết nước nghĩa với các phường Xoan và các phường Xoan cũng kết nước nghĩa với nhau. Họ coi nhau thân thiết như anh em, nhưng tuyệt đối đào, kép trong các phường Xoan không được lấy nam nữ thanh niên của làng kết nước nghĩa.
 
2- Trình tự trình diễn Hát Xoan:
Trình diễn một cuộc Hát Xoan nhất thiết phải theo trình tự đã quy định thống nhất trong các phường ( theo 3 chặng hát). Tuyệt đối không được phép thay đổi, một cuộc hát Xoan bao giờ cũng có ba phần chính: Phần hát nghi lễ theo tín ngưỡng dân gian; phần trình diễn các quả cách và phần hát hội.

+ Chặng hát nghi lễ theo tín ngưỡng dân gian: Phần này chủ yếu là hát nghi thức với các bài: Giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám với những lời cầu nguyện, cầu chúc, cầu mong các bậc Vua, Thần linh, Thành hoàng phù hộ cho dân làng được mọi sự bình an, mạnh khỏe, " phong đăng, hòa cốc"; " nhân khang vật thịnh"... thể hiện ước nguyện của người nông dân được quanh năm no đủ, nhà nhà, người người yên vui. Phần hát nghi lễ được trình diễn theo đúng nghi thức dân gian trước cửa võng ở trong nội đình ( nên gọi Hát Xoan là hát cửa đình). Những lời ca này được sao chép cẩn thận và do ông trùm lưu giữ. Đào và kép hát xen kẽ nhau, lúc phụ họa lúc đuổi nhau, múa hát rộn ràng, động tác dứt khoát, khỏe mạnh tạo không khí linh thiêng, tôn kính trước khi vào cuộc Hát Xoan trong ngày hội.

+ Chặng hát trình diễn 14 quả cách ( quả là bài, cách là hình thức thể hiện): Kiều Giang Cách; Nhàn Ngâm Cách; Tràng Mai Cách; Ngư Tiều Canh Mục Cách; Đối rẫy Cách; Xuân Thời Cách; Hồi Liên Cách; Hạ Thời Cách; Thu thời Cách; Đông thời Cách; Tứ Mùa Cách; Thuyền Chèo Cách; Tứ Dân Cách; Chơi Dâu Cách.

Nội dung các quả cách bao gồm các lời ca mô tả đời sống và sinh hoạt của các tầng lớp người đương thời ở nông thôn hoặc ca ngợi 4 mùa xuân- hạ- thu- đông cùng với sự biến đổi của cảnh vật thiên nhiên qua một năm canh tác, trồng cấy của nhà nông, hoặc kể các cốt truyện cổ tích xưa. Mỗi quả cách thường có cấu trúc ba phần rõ rệt: giáo cách (mở đầu) - đưa cách ( phần giữa) - kết cách ( phần cuối).

Nối tiếp các quả cách thường có láy câu chuyển tiếp: “Các bạn họ ta lấy qua làn dậm là hỡi dậm nào dậm ấy cho qua” hoặc “Cách ấy cho qua, hỡi bạn chèo ta, giờ sang cách khác, giã tiệc này, ta là Đại Vương.”

+ Chặng hát hội ( hát phú lý): Phần hát này mang tính chất trữ tình, giao duyên nam nữ phản ánh những tình cảm quan hệ yêu đương trai gái với hình thức đối đáp thể hiện sự ứng tác, đối đáp linh hoạt mang tính chất đua tài, thi ứng phó nhanh giống như hát ví, hát trống quân bao gồm các tiết mục múa, hát, dựng các hoạt cảnh, các trò chơi. Đây cũng là phần hứng thú và sinh động và hấp dẫn nhất trong cuộc Hát Xoan nói chung. Nghệ thuật của hát Xoan độc đáo và đặc trưng là ở chặng hát này.

Chặng hát này thường được tiến hành theo các thứ tự: hát ghẹo- giao duyên, xin hoa đố chữ, hát đúm và giã ( mó) cá mang đậm ý nghĩa của tín ngưỡng phồn thực: âm- dương; Trai- gái; sinh sôi nảy nở giống nòi. Giã cá hoặc mó cá được coi là tiết mục kết thúc quá trình diễn xướng của hát Xoan, có tiết tấu nhịp nhàng, khỏe khoắn, sô động, thể hiện rõ nét đặc trưng của tín ngưỡng phồn thực qua mối quan hệ giữa trai (dương) và gái ( âm) với ước nguyện sinh sôi, nảy nở phát triển giống nòi để có thêm nhiều nhân lực, của cải trong lao động sản xuất. Điệu múa gồm mười hai đào Xoan và bốn chàng trai làng tượng trưng cho cá bị bắt dâng lên thờ Vua. Chặng hát này được múa hát vào lúc nửa đêm hay gần sáng trước bàn thờ Thánh trong nội đình.

3- Âm nhạc trong Hát Xoan: 
Hát Xoan được cấu thành chủ yếu từ những thang 3 âm, 4 âm ( quãng 3 hoặc quãng 4). Giai điệu Xoan mộc mạc, tiết tấu đơn giản, cách hát gần gũi với giọng nói. Hiện tại, các phường Xoan trên địa bàn Phú Thọ còn bảo tồn được 31 bài Xoan ở 4 phường Xoan gốc: An Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái, đều thuộc thành phố Việt Trì. Đứng đầu phường Xoan là ông Trùm. Trong Hát Xoan, Kép nam thường làm nhiệm vụ hát dẫn (lĩnh xướng), múa, đệm trống con, trống cái; Đào nữ thường đóng vai trò hát phỏng (hát nhắc lại), hát đối đáp, hay múa... Ngoài ra, khi Phường Xoan được mời đến trình diễn ở nơi khác, trong phần Hát Hội còn có sự tham gia của trai, gái đại diện cho cộng đồng của cửa đình sở tại...
 
4- Đạo cụ và nhạc cụ trong Hát Xoan:
Đạo cụ và nhạc cụ dùng cho Hát Xoan vừa rất đơn giản, không đòi hỏi cầu kỳ và phù hợp với đời sống bình dị của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng trung du Phú Thọ lại vừa thể hiện tính nghiêm trang trong thực hành tín ngưỡng thờ cúng và tính phổ thông quần chúng để các đào kép dễ thể hiện trình diễn Hát Xoan. Chỉ dùng một chiếc trống nhỏ đường kính mặt trống 20 cm, chiều cao 25 đến 30 cm, hai mặt bịt da và tang trống bằng gỗ mít cùng với đôi, ba cặp phách bằng tre đực già. Tuy vậy, kép trống lại có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giữ nhịp cho các kép và đào hát trong toàn bộ cuộc hát. Nếu kép trống mà không thuần thục giữ nhịp trống thì ảnh hưởng rất nhiều đến không khí và chất lượng của cuộc hát. Trước khi vào cuộc hát, kép trống sẽ đánh một hồi như lời mời và ra hiệu bắt đầu cuộc hát, sau đó là giữ nhịp cho cuộc hát. Khi chuyển các chặng hát thì bao giờ kép trống cũng phải co hồi trống chuyển tiếp.
 
5- Lời của các bài bản Hát Xoan:
Vì là lối hát thờ Thần linh, Thành hoàng làng và các Vua Hùng trước cửa đình nên nghệ thuật trình diễn của Hát Xoan rất đơn giản, mộc mạc với sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc, thơ, vè và giọng điệu mang đậm dấu ấn thổ ngữ của địa phương vùng trung du Phú Thọ( dân ca). Lời ca trong Hát Xoan còn có sự kết hợp với các điệu múa đơn giản chủ yếu bằng đôi tay của các đào, kép đưa ra, thu vào, ngửa bàn tay, úp bàn tay, kết hợp với việc sử dụng các đạo cụ, như quạt, phách tre, nậm rượu... Di chuyển trong Hát Xoan bằng đôi chân chủ yếu theo hàng dọc hoặc hàng ngang và vòng tròn (mó, giã cá) cũng đơn giản không phức tạp. Lời Xoan thường được thể hiện dưới dạng thể thơ song thất lục bát ( 2 câu 7, một câu 6, một câu 8), thất ngôn ( 7 từ), lục bát, lục bát biến thể, bốn từ, sáu từ đơn giản dễ nhớ, dễ thuộc, dễ hát.

Hát Xoan hội đủ các yếu tố của văn nghệ dân gian bao gồm về tổ chức Phường ( họ); trình diễn theo hình thức đơn giản hát kết hợp với múa gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Đó là hình thức âm nhạc cổ truyền, kết hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai điệu và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được cộng đồng gìn giữ qua nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc của loại hình nghệ thuật độc đáo này, ngày 24 tháng 11 năm 2011, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công nhận Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại và ngày 08 tháng 12 năm 2017, Hát Xoan Phú Thọ chính thức được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật truyền thống Hát Xoan Phú Thọ sẽ thiết thực góp phần cho việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và duy trì tính đa dạng của di sản văn hóa nhân loại để Hát Xoan Phú Thọ mãi mãi trường tồn cùng dân tộc và nhân loại.

                                      Trại sáng tác Đà Nẵng, tháng 9 /2018

Bế mạc Trại sáng tác âm nhạc “Huế Xưa và Nay”

Tối ngày 29/9, tại hội trường Đài Phát thanh và Truyền hình Thừa Thiên Huế, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật phối hợp với Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức bế mạc trại sáng tác Âm nhạc “Huế Xưa và Nay”.

bemacamnhachuet8 2018

Đến dự có ông Lê Trường Lưu – Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; ông Phan Ngọc Thọ - Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; ông Nguyễn Dung, Tỉnh ủy viên, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; ông Nguyễn Thái Sơn, Ủy viên thường vụ tỉnh ủy, trưởng ban Tuyên giáo tỉnh ủy; ông Huỳnh Văn Ngàn – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật; nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân – Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Chương trình biểu diễn những  khúc được sáng tác trong trại sáng tác âm nhạc “Huế xưa và nay”, như: Gặp em (thơ Dương Vân, nhạc Đỗ Hồng Quân), Sóng Hương Giang (thơ Lê Tự Minh, nhạc Đức Trịnh); Cảm xúc Huế (Tôn Thất Lập), Về Huế với nhau đi (Lê Minh Sơn), Còn trong ký ức (thơ Thái Thăng Long, nhạc Phú Quang)… Đây là những ca khúc mới, giàu cảm xúc và giai điệu, có chất lượng ca ngợi về con người và xứ Huế mộng mơ.

Trại sáng tác “Huế xưa và nay” có sự tham gia của 16 nhạc sĩ là những tên tuổi lớn trên cả nước và một số văn nghệ sĩ tại tỉnh Thừa Thiên Huế tham gia, như: PGS.TS Đỗ Hồng Quân, nhạc sĩ Tôn Thất Lập, nhạc sĩ Phú Quang, nhạc sĩ Lê Minh Sơn, nhạc sĩ Lê Tự Minh, nhạc sĩ Trầm Tích,… Các nhạc sĩ đã đi thực tế tại một số danh thắng trên địa bàn tỉnh, như: tham quan di tích Huế, đầm phá Tam Giang, Vườn Quốc gia Bạch Mã, đầm Lập An, Lăng Cô, huyện A Lưới và một số địa danh khác. Phong cảnh nên thơ và hùng vĩ đã tạo cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tác được những tác phẩm hay, phản ánh chân thực về xứ Cố đô và lòng mến khách của người dân nơi đây.
 
bemacamnhachuet8 2018 1
Các nhạc sĩ tham gia Trại sáng tác chụp hình lưu niệm cùng Ban tổ chức và khách mời.

Tham gia trại sáng tác lần này, các nhạc sĩ đã gặt hái được những thành công tốt đẹp, BTC đã thu nhận được một bộ sưu tập các tác phẩm chất lượng tốt, thể hiện sự say mê và tinh thần trách nhiệm cao của các nhạc sĩ dự trại. 

Nguồn: Tổng hợp.

Bế mạc Trại sáng tác âm nhạc “Huế Xưa và Nay”

Tối ngày 29/9, tại hội trường Đài Phát thanh và Truyền hình Thừa Thiên Huế, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật phối hợp với Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức bế mạc trại sáng tác Âm nhạc “Huế Xưa và Nay”.

bemacamnhachuet8 2018

Đến dự có ông Lê Trường Lưu – Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; ông Phan Ngọc Thọ - Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; ông Nguyễn Dung, Tỉnh ủy viên, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; ông Nguyễn Thái Sơn, Ủy viên thường vụ tỉnh ủy, trưởng ban Tuyên giáo tỉnh ủy; ông Huỳnh Văn Ngàn – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật; nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân – Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Chương trình biểu diễn những  khúc được sáng tác trong trại sáng tác âm nhạc “Huế xưa và nay”, như: Gặp em (thơ Dương Vân, nhạc Đỗ Hồng Quân), Sóng Hương Giang (thơ Lê Tự Minh, nhạc Đức Trịnh); Cảm xúc Huế (Tôn Thất Lập), Về Huế với nhau đi (Lê Minh Sơn), Còn trong ký ức (thơ Thái Thăng Long, nhạc Phú Quang)… Đây là những ca khúc mới, giàu cảm xúc và giai điệu, có chất lượng ca ngợi về con người và xứ Huế mộng mơ.

Trại sáng tác “Huế xưa và nay” có sự tham gia của 16 nhạc sĩ là những tên tuổi lớn trên cả nước và một số văn nghệ sĩ tại tỉnh Thừa Thiên Huế tham gia, như: PGS.TS Đỗ Hồng Quân, nhạc sĩ Tôn Thất Lập, nhạc sĩ Phú Quang, nhạc sĩ Lê Minh Sơn, nhạc sĩ Lê Tự Minh, nhạc sĩ Trầm Tích,… Các nhạc sĩ đã đi thực tế tại một số danh thắng trên địa bàn tỉnh, như: tham quan di tích Huế, đầm phá Tam Giang, Vườn Quốc gia Bạch Mã, đầm Lập An, Lăng Cô, huyện A Lưới và một số địa danh khác. Phong cảnh nên thơ và hùng vĩ đã tạo cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tác được những tác phẩm hay, phản ánh chân thực về xứ Cố đô và lòng mến khách của người dân nơi đây.
 
bemacamnhachuet8 2018 1
Các nhạc sĩ tham gia Trại sáng tác chụp hình lưu niệm cùng Ban tổ chức và khách mời.

Tham gia trại sáng tác lần này, các nhạc sĩ đã gặt hái được những thành công tốt đẹp, BTC đã thu nhận được một bộ sưu tập các tác phẩm chất lượng tốt, thể hiện sự say mê và tinh thần trách nhiệm cao của các nhạc sĩ dự trại. 

Nguồn: Tổng hợp.

Chùm thơ của Vũ Kim Liên - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ

Chùm thơ của Vũ Kim Liên - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ, sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 9-2018.

ĐÊM NGHE HÁT BÀI CHÒI ĐÀ NẴNG
                                                                           “...Đi đâu cọ xiểng đi hài

                                                   Cử nhơn không đậu, tú tài cũng không...” (thằng Trò)- Dân ca Bài Chòi Đà Nẵng

Một đêm làm khách lạ
Háo hức bên sông Hàn
Đợi cầu Rồng phun lửa
Thả lên trời bao la
 
Chợt nghe điệu dân ca
Bài Chòi bên quán lá
Những Pho Văn, Pho Vạn
Những Nhứt Nọc, Nhì Nghèo
 
Câu Khai vừa mới gieo
Đã có người đáp lại
Anh Hiệu sóc con bài
Xướng tên trên thẻ rút
 
Điệu Bài Chòi thúc giục
Trống, đờn cò, kèn, sanh
Cùng tấu hòa muôn khúc
Níu hồn người phương xa
 
Mỗi làn điệu dân ca
Một mạch nguồn truyền thống
Lắng sâu hồn dân tộc
Cùng giống nòi bay lên
 
Lắng nghe trong tiếng đêm
Điệu Bài Chòi da diết
Càng yêu hơn tiếng Việt
Tiếng ông cha ngàn đời!

                   Nhà sáng tác Đà Nẵng, 10/9/2018

PHỐ HỘI

Ngày em đi mưa giăng đầy Phố Hội
Mái chùa Cầu cong như võng hứng mưa rơi
Bên gác nhỏ áo dài run vai nép
Phố nhập nhòa không tiếng guốc khua
Những chiếc đèn lồng ngủ quên trời quên đất
Chỉ hoa tím thôi ngọng nghịu nụ cười
Và nón trắng thẫn thờ nón trắng...
Từ buổi ấy xa sông Hoài đi mãi
Tất bật mưu sinh
Chưa trở lại nhà
Những nỗi nhớ vùi vào tim nghèn nghẹn
Cứ lấp đầy từng khoảng trống mong manh
Mỗi cơn mưa thêm mỗi lần khắc khoải
Giục em về thuở ấy tinh khôi
Ngày trở lại đèn hoa giăng kín lối
Phố Hội rêu phong
Mái gỗ bạc màu
Nón trắng qua cầu rền vang tiếng guốc
Tà áo tung bay gọi đèn lồng thức dậy
Phố Hội vàng son. Phố Hội mặc trầm
Ngày em về
Ngõ vắng lại xôn xao...

                                 Đà Nẵng, 13/9/2018

Subscribe to this RSS feed

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - TRUNG TÂM HỖ TRỢ SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUÂT
Địa chỉ : 1A Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại : 04 39.745.763
Bản quyền thuộc về Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác VHNT. Yêu cầu trích nguồn khi đăng tải nội dung từ trang web này