Minh Phương

Minh Phương

Bế mạc Trại sáng tác văn học 2020 tại Đà Lạt của Hội Nhà văn Việt Nam

Ngày 17/10/2020 Nhà sáng tác Đà Lạt đã phối hợp với Nhà văn Việt Nam tổ chức Bế mạc Trại sáng tác văn học năm 2020 do Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức.

Dự bế mạc có đại diện Hội nhà văn Việt Nam bà Võ Thị Xuân Hà - Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà văn Nguyên An (Nguyễn Quốc Luân) - Trưởng đoàn; Ông Võ Văn Quốc Bình – Giám đốc Nhà sáng tác Đà Lạt, cùng 26 nhà văn tham gia dự Trại sáng tác.

Bà Võ Thị Xuân Hà đã thông qua báo cáo tóm tắt về nội dung của 55 tác phẩm bao gồm các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, tiểu luận, lý luận phê bình, tản văn … hoàn thành trong đợt trại này. Theo đó, các tác phẩm đều có chất lượng tốt, mang đậm dấu ấn cá nhân của từng tác giả. Trong mỗi tác phẩm đều có sự sáng tạo, bám sát hơi thở cuộc sống, khắc hoạ được những giá trị nhân văn sâu sắc.

Với sự kết hợp của các nhà văn trẻ và nhà văn lão thành trong cùng một trại sáng tác, Ban tổ chức đã tạo điều kiện để các nhà văn trẻ được giao lưu, học hỏi kinh nghiệm từ các bậc đàn anh, cũng như để các nhà văn lão thành thấy lại được sự tươi trẻ, mạnh mẽ từ các cây bút trẻ. Từ đó có thể tạo ra những động lực sáng tạo mới, để có được những tác phẩm chất lượng cao.

bemachoinhavant10 2020

Ông Võ Văn Quốc Bình thay mặt toàn thể cán bộ, nhân viên Nhà sáng tác Đà Lạt chúc mừng đoàn văn nghệ sỹ Hội nhà văn Việt Nam đã có một trại sáng tác thành công về nhiều mặt. Ông cũng bày tỏ mong muốn được tiếp tục đón nhận nhiều thành công hơn nữa khi tiếp đón các nhà văn tại các trại sáng tác trong tương lai.

Bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế 2020 tại Nha Trang

Ngày 19/10/2020, tại Nhà sáng tác Nha Trang đã diễn ra buổi bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật 2020 do Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức.

Đến dự buổi bế mạc có ông Hồ Đăng Thanh Ngọc – Chủ tịch Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế; bà Đỗ Thị Mai Hương – Giám đốc Nhà sáng tác Nha Trang cùng toàn thể các văn nghệ sỹ dự trại.

bemacthuathienhuet10 2020

Trại sáng tác lần này đã diễn ra trong thời gian tỉnh Thừa Thiên Huế phải đón nhận cơn lũ lớn lịch sử, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần cũng như công việc sáng tác của các văn nghệ sỹ, nhiều văn nghệ sỹ đã phải rời trại trong một khoảng thời gian để trở về Huế. Nặng lòng với Huế, bằng tinh thần lao động miệt mài, không ngừng sáng tạo, tất cả các văn nghệ sỹ dự trại đều đã hoàn thành tác phẩm của mình, theo đúng đề cương đã đăng ký với Ban tổ chức. Các văn nghệ sỹ sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị cao, thể hiện qua nhiều thể loại phong phú. Các tác phẩm đều mang hơi thở cuộc sống, thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên của mảnh đất, con người vùng đất Thừa Thiên Huế và vùng đất biển Nha Trang. Hai nơi này đã tạo ra nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ để sáng tác ra những tác phẩm cho riêng mình. Đặc biệt, những danh lam thắng cảnh, làng nghề truyền thống đã được chuyển tải sinh động, phong phú qua lời văn, ca khúc, thơ, tranh mang phong cách rất riêng của từng văn nghệ sĩ.

Trong báo cáo về kết quả Trại sáng tác, ông Nguyễn Thế - Trưởng đoàn đã khẳng định về thành công của Trại sáng tác, với một khối lượng lớn tác phẩm đã được hoàn thành gồm 53 tác phẩm các thể loại. Có được sự thành công đó, ngoài sự nỗ lực hết mình của các văn nghệ sỹ, còn có sự hỗ trợ, giúp đỡ tận tình của lãnh đạo và cán bộ nhân viên Nhà sáng tác Nha Trang. Họ đã chăm sóc chu đáo, ân cần, đảm bảo cho các văn nghệ sỹ từng bữa ăn, giấc ngủ cũng như khả năng phòng chống dịch bệnh Covid-19, để các văn nghệ sỹ có thể toàn tâm, toàn ý sáng tác.

Bà Đỗ Thị Mai Hương thay mặt Nhà sáng tác Nha Trang đón nhận lời cảm ơn chân thành của các văn nghệ sỹ. Bà chúc các văn nghệ sỹ luôn mạnh khoẻ, luôn dồi dào năng lượng, cảm hứng sáng tạo để có thể cho ra đời những tác phẩm có chất lượng cao, được công chúng đón nhận.

Trại sáng tác lần này đã thu về 53 tác phẩm, bao gồm: 14 tác phẩm văn học; 05 tác phẩm âm nhạc; 11 tác phẩm mỹ thuật; 21 tác phẩm nhiếp ảnh; 01 tác phẩm văn học dân gian; 01 tác phẩm sân khấu.

Bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế 2020 tại Nha Trang

Ngày 19/10/2020, tại Nhà sáng tác Nha Trang đã diễn ra buổi bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật 2020 do Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức.

Đến dự buổi bế mạc có ông Hồ Đăng Thanh Ngọc – Chủ tịch Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế; bà Đỗ Thị Mai Hương – Giám đốc Nhà sáng tác Nha Trang cùng toàn thể các văn nghệ sỹ dự trại.

bemacthuathienhuet10 2020

Trại sáng tác lần này đã diễn ra trong thời gian tỉnh Thừa Thiên Huế phải đón nhận cơn lũ lớn lịch sử, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần cũng như công việc sáng tác của các văn nghệ sỹ, nhiều văn nghệ sỹ đã phải rời trại trong một khoảng thời gian để trở về Huế. Nặng lòng với Huế, bằng tinh thần lao động miệt mài, không ngừng sáng tạo, tất cả các văn nghệ sỹ dự trại đều đã hoàn thành tác phẩm của mình, theo đúng đề cương đã đăng ký với Ban tổ chức. Các văn nghệ sỹ sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị cao, thể hiện qua nhiều thể loại phong phú. Các tác phẩm đều mang hơi thở cuộc sống, thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên của mảnh đất, con người vùng đất Thừa Thiên Huế và vùng đất biển Nha Trang. Hai nơi này đã tạo ra nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ để sáng tác ra những tác phẩm cho riêng mình. Đặc biệt, những danh lam thắng cảnh, làng nghề truyền thống đã được chuyển tải sinh động, phong phú qua lời văn, ca khúc, thơ, tranh mang phong cách rất riêng của từng văn nghệ sĩ.

Trong báo cáo về kết quả Trại sáng tác, ông Nguyễn Thế - Trưởng đoàn đã khẳng định về thành công của Trại sáng tác, với một khối lượng lớn tác phẩm đã được hoàn thành gồm 53 tác phẩm các thể loại. Có được sự thành công đó, ngoài sự nỗ lực hết mình của các văn nghệ sỹ, còn có sự hỗ trợ, giúp đỡ tận tình của lãnh đạo và cán bộ nhân viên Nhà sáng tác Nha Trang. Họ đã chăm sóc chu đáo, ân cần, đảm bảo cho các văn nghệ sỹ từng bữa ăn, giấc ngủ cũng như khả năng phòng chống dịch bệnh Covid-19, để các văn nghệ sỹ có thể toàn tâm, toàn ý sáng tác.

Bà Đỗ Thị Mai Hương thay mặt Nhà sáng tác Nha Trang đón nhận lời cảm ơn chân thành của các văn nghệ sỹ. Bà chúc các văn nghệ sỹ luôn mạnh khoẻ, luôn dồi dào năng lượng, cảm hứng sáng tạo để có thể cho ra đời những tác phẩm có chất lượng cao, được công chúng đón nhận.

Trại sáng tác lần này đã thu về 53 tác phẩm, bao gồm: 14 tác phẩm văn học; 05 tác phẩm âm nhạc; 11 tác phẩm mỹ thuật; 21 tác phẩm nhiếp ảnh; 01 tác phẩm văn học dân gian; 01 tác phẩm sân khấu.

Bế mạc Trại sáng tác Quảng Ninh 2020 tại Nha Trang

Ngày 15/10/2020 đã diễn ra buổi bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Quảng Ninh 2020 tại Nhà sáng tác Nha Trang. Trại sáng tác lần này được tổ chức với sự hỗ trợ của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật và Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh.

Tham dự buổi bế mạc có bà Hoàng Thị Hương Thơm – Phó Giám đốc Nhà sáng tác Nha Trang cùng toàn thể các văn nghệ sỹ dự trại.

bemacquangninht10 2020
Các tác giả giao lưu chia sẻ các tác phẩm dự trại

Trại sáng tác diễn ra trong 15 ngày từ 1/10 - 15/10/2020 với sự tham gia của 15 hội viên tiêu biểu ở các lĩnh vực văn học, âm nhạc, nhiếp ảnh, mỹ thuật, sân khấu. Trước khi lên đường tham gia trại sáng tác, các văn nghệ sỹ Quảng Ninh đã có đề cương, đề tài phù hợp theo từng chủ đề.

Trong thời gian diễn ra trại sáng tác, các trại viên được tạo điều kiện đến nhiều địa điếm nổi tiếng của thành phố biển Nha Trang như: Tháp Bà Ponagar, Đèo Khánh Lê, chiêm ngưỡng những điệu múa truyền thống của đồng bào Chăm…, từ đó tìm cảm hứng để sáng tạo nên những tác phẩm mới. Kết thúc trại, các tác giả Quảng Ninh đã hoàn thành 40 tác phẩm ở các thể loại.

Phát biểu tại buổi bế mạc, các văn nghệ sỹ Quảng Ninh khẳng định: Trại sáng tác là cơ hội để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm sáng tác, học hỏi thêm từ những văn nghệ sỹ địa phương; cảm nhận những nét đẹp của các vùng miền đất nước; từ đó phản ánh dưới góc nhìn nghệ thuật riêng và cho ra đời những tác phẩm mới có giá trị về tư tưởng, thẩm mỹ.

Bà Hoàng Thị Hương Thơm đã thay mặt cho toàn thể cán bộ, nhân viên Nhà sáng tác Nha Trang chúc mừng thành công của Trại sáng tác. Với việc tuân thủ nội quy của Nhà sáng tác cũng như Ban tổ chức, các văn nghệ sỹ đã có một kỳ trại sáng tác thành công về nhiều mặt, đồng thời vẫn đảm bảo sức khoẻ trong thời điểm dịch bệnh Covid-19. Bà chúc các văn nghệ sỹ sớm có thể xuất bản được các tác phẩm của mình và đạt được thêm nhiều thành công trong thời gian tới. Nhà sáng tác Nha Trang luôn sẵn sàng tiếp đón các văn nghệ sỹ trở lại sáng tác trong tương lai.

Kết quả Trại sáng tác Quảng Ninh: 40 tác phẩm các thể loại: Văn học: 16 tác phẩm; Âm nhạc: 11 tác phẩm; Mỹ thuật: 2 tác phẩm; Nhiếp ảnh: 9 tác phẩm; Sân khấu: 2 tác phẩm.

Bế mạc Trại sáng tác Quảng Ninh 2020 tại Nha Trang

Ngày 15/10/2020 đã diễn ra buổi bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Quảng Ninh 2020 tại Nhà sáng tác Nha Trang. Trại sáng tác lần này được tổ chức với sự hỗ trợ của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật và Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh.

Tham dự buổi bế mạc có bà Hoàng Thị Hương Thơm – Phó Giám đốc Nhà sáng tác Nha Trang cùng toàn thể các văn nghệ sỹ dự trại.

bemacquangninht10 2020
Các tác giả giao lưu chia sẻ các tác phẩm dự trại

Trại sáng tác diễn ra trong 15 ngày từ 1/10 - 15/10/2020 với sự tham gia của 15 hội viên tiêu biểu ở các lĩnh vực văn học, âm nhạc, nhiếp ảnh, mỹ thuật, sân khấu. Trước khi lên đường tham gia trại sáng tác, các văn nghệ sỹ Quảng Ninh đã có đề cương, đề tài phù hợp theo từng chủ đề.

Trong thời gian diễn ra trại sáng tác, các trại viên được tạo điều kiện đến nhiều địa điếm nổi tiếng của thành phố biển Nha Trang như: Tháp Bà Ponagar, Đèo Khánh Lê, chiêm ngưỡng những điệu múa truyền thống của đồng bào Chăm…, từ đó tìm cảm hứng để sáng tạo nên những tác phẩm mới. Kết thúc trại, các tác giả Quảng Ninh đã hoàn thành 40 tác phẩm ở các thể loại.

Phát biểu tại buổi bế mạc, các văn nghệ sỹ Quảng Ninh khẳng định: Trại sáng tác là cơ hội để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm sáng tác, học hỏi thêm từ những văn nghệ sỹ địa phương; cảm nhận những nét đẹp của các vùng miền đất nước; từ đó phản ánh dưới góc nhìn nghệ thuật riêng và cho ra đời những tác phẩm mới có giá trị về tư tưởng, thẩm mỹ.

Bà Hoàng Thị Hương Thơm đã thay mặt cho toàn thể cán bộ, nhân viên Nhà sáng tác Nha Trang chúc mừng thành công của Trại sáng tác. Với việc tuân thủ nội quy của Nhà sáng tác cũng như Ban tổ chức, các văn nghệ sỹ đã có một kỳ trại sáng tác thành công về nhiều mặt, đồng thời vẫn đảm bảo sức khoẻ trong thời điểm dịch bệnh Covid-19. Bà chúc các văn nghệ sỹ sớm có thể xuất bản được các tác phẩm của mình và đạt được thêm nhiều thành công trong thời gian tới. Nhà sáng tác Nha Trang luôn sẵn sàng tiếp đón các văn nghệ sỹ trở lại sáng tác trong tương lai.

Kết quả Trại sáng tác Quảng Ninh: 40 tác phẩm các thể loại: Văn học: 16 tác phẩm; Âm nhạc: 11 tác phẩm; Mỹ thuật: 2 tác phẩm; Nhiếp ảnh: 9 tác phẩm; Sân khấu: 2 tác phẩm.

MẮC KẸT - Truyện ngắn của Lê Hoài Lương – Hội văn học nghệ thuật Bình Định

Truyện ngắn của Lê Hoài Lương – Hội văn học nghệ thuật Bình Định - sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 9/2020.

MẮC KẸT

1.

     Tôi là thợ sửa khóa nổi tiếng. Thời công nghệ số, tiếng chưa chắc đã lành, cũng có cơ hội “đồn xa”. Nghề dạy nghề đã đành, thông tin mạng hỗ trợ rất nhiều. Các loại khóa tôi đều sửa được. Khóa US, khóa Việt Tiệp, khóa Viro thời xa lắc đến vô vàn các loại khóa mới hiện nay: Hafele, Yale, Abus, Titalium, KINBar…, các loại khóa mã số UNICOR, HILUX… Các kiểu khóa xe máy, ô tô đủ chủng loại từ đồng nát nhôm nhựa đến đại gia, khóa két sắt cá nhân, két sắt ngân hàng, khóa xe quân sự, xe tăng, xe thiết giáp tôi đều chinh phục. Chỉ chưa sửa khóa máy bay vì chưa ai kêu.

     Nghề khóa tôi học từ cha vợ. Nếu tôi và Tâm không yêu nhau và quyết tâm làm vợ chồng, chắc chắn tôi không có nghề sửa khóa.

*

     Ba tôi thoát ly tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi. Ông nội tôi tập kết. Dù ông tôi gốc chánh tổng, học chữ Nho, nhà khá giả, nhưng thấy Việt Minh tốt đẹp mọi bề, với khát vọng độc lập tự do, cơm no áo ấm dân tộc nên ông nồng nhiệt dâng hiến cho cách mạng. Sau này ở ngoài bắc ông có bà nội hai trẻ hơn mười mấy tuổi, còn bà nội tôi một đời nuôi con, lo phần hương khói nhà chồng. Lý tưởng của ông nội, ba tôi nối tiếp, đơn giản người ta móc nối con gia đình cách mạng, ba tham gia hoạt động nội thành từ thời trung học, sau bị lộ, đường dây đưa lên núi năm đệ tứ. Thời này, chữ nghĩa ba tôi tạng hiếm trên núi nên được phân công về Ban Tuyên huấn, rồi vào Đội Võ trang tuyên truyền, viết truyền đơn, viết những bài vần vè thơ phú đơn giản để tuyên truyền địch vận, tuyên truyền đồng bào yêu nước, yêu cách mạng, vân vân. Cũng vào sinh ra tử mấy bận nhưng may, sau Bảy lăm chỉ vài vết thương xoàng. Nhờ chữ nghĩa và văn vẻ thời chiến, ba tôi được điều về ngành văn hóa thời bình. Vừa làm vừa học thôi, hàm thụ, tại chức, đào tạo cán bộ. Gì chớ học vấn ba tôi những ngày đầu hòa bình trong các cơ quan ban ngành tỉnh cũng không nhiều. Và với nỗ lực học hỏi của mình, ba tôi là một cán bộ ngành thực sự có năng lực, uy tín, mới ngoài bốn mươi ông đã là giám đốc sở. Trẻ nhất tỉnh lúc bấy giờ. Mấy nhiệm kỳ giám đốc, cho tới thời điểm tôi kể câu chuyện tôi và Tâm.

   Nhà có hai anh em, anh Đức tôi học hành ngon lành, đỗ đại học rồi có việc làm một cơ quan nhà nước. Tôi ham chơi, học hành lạch ạch. Trầy trật mãi mới xong phổ thông, rồi vào trường Trung cấp Kỹ thuật cơ điện, cái trường của chế độ trước để lại, chủ yếu đào tạo các nghề điện, cơ khí. Thời thành phố tôi đình đám buôn lậu hàng tàu, những tivi cũ được dân tàu biển đi Nhật mua về bán sô, dân góp tiền chạy thuyền máy ra mua từng lô hàng cả trăm cái. Về căn bản hàng cũ của Nhật thải ra đều còn xài tốt, những cái lênh đênh trên biển lâu ngày ẩm IC, sửa chữa tí là xong. Rồi mày mò chuyển tivi đen trắng sang tivi màu… Tôi vốn ưa thích mấy việc này nên nắm nghề nhanh, việc cứ ro ro, làm không xuể. Ngon ăn lắm, mỗi ngày có khi kiếm cả chỉ vàng. Má tôi hết ca cẩm. Ba tôi hài lòng, kệ nó, làm ăn đàng hoàng, lương thiện, sống được là tốt.

   Tôi gặp Tâm từ lần sửa cái tivi màu bị xịt hồi cô còn học 12. Chỗ tôi thuê làm nghề trước hẻm nhà cô. Ngày ngày Tâm đi bộ tới trường ngang qua, chẳng biết sao những lúc ấy tôi phải ngước lên nhìn cô, cười chào. Rồi hẹn nhau đi coi phim rạp, đi uống nước mía.

     Chúng tôi yêu nhau như lẽ tự nhiên. Tâm đẹp, cốt cách sang quý, dù áo quần cô mặc tạng vải rẻ tiền nhưng bao giờ cũng chỉn chu, tinh tươm. Tâm vào đại học cũng trên địa bàn thành phố, chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Khi cô ra trường, xin việc mãi không được, ở nhà phụ mẹ bán nồi xôi sáng. Chúng tôi quyết định báo gia đình, chuyện cưới. Hai nhà đều biết loáng thoáng chúng tôi yêu nhau mấy năm nay. Nhưng…
     - Sao con không nói với ba? Gia đình mình truyền thống cách mạng, giờ ba làm sui với sĩ quan ngụy à? Ba đương chức, khóa tới cơ cấu lên phó chủ tịch tỉnh… Thôi thôi, con còn trẻ, con gái thiếu gì, con nhà xích lô ba gác cũng được chứ con Tâm thì không!
     - Ba thấy thằng Thiện tâm tính cũng được. Nhưng cứ tưởng nó con nhà lao động chớ ai dè con quan chức. Đủ rồi! Sáu năm trong trại cải tạo với ba là đủ rồi! Ba không thể!... Mà con ngó ngôi nhà rách trong hẻm của mình coi, ngó ba còng lưng ngoài chợ sửa khóa, má con với cái nồi xôi bán cho dân lao động cực nhọc… Không! Người ta nhà cao cửa rộng, ô tô đưa đón. Ba không thể!

     Dù đã dự lường, tôi và Tâm vẫn thấy hụt hẫng. Nhưng cứ kiên trì gặp nhau. Chúng tôi thừa cái hiếu thắng của tuổi trẻ để tin rằng chuyện người lớn, chuyện chính trị, thắng thua của một thời chẳng dính dáng gì tới tình yêu chúng tôi. Sinh ra lúc đất nước đã hòa bình, thống nhất, sao chúng tôi phải chịu trách nhiệm về một thời bắn giết nhau? Càng khó khăn, chúng tôi càng yêu nhau, càng quyết tâm vượt qua. Nhiều lần ràn rụa nước mắt trong vòng tay nhau, chúng tôi nghĩ tới mối tình Romeo Juliet hóa giải hận thù. Chúng tôi thấy tình yêu của mình đẹp nhất trần gian. Dù vẫn gờn gợn về một tương lai nhiều bất trắc, nhưng quyết không lìa nhau, đời này kiếp này; sẽ làm những công việc cực nhọc nhất để kiếm sống và chắc chắn sẽ mãi hạnh phúc cùng những đứa con đẹp như thiên thần của mình…- chúng tôi nhiều lần nói về những điều thật lãng mạn như vậy.

     Khi tỉnh kiên quyết triệt đường dây buôn lậu hàng tàu, nó ló ngay ở cảng khác, tỉnh khác. Thành phố chúng tôi lơ ngơ mất mấy năm: nguồn tiền các nơi đổ về đứt phựt, đứt theo cái nghề hái ra tiền của tôi. Là lúc Tâm có bầu.

     Tôi đến nhà thưa ba má Tâm tác thành cho chúng tôi trong sự cam chịu và ánh mắt rưng rưng xin lỗi của Tâm. Ba Tâm im lặng thở dài. Tôi thưa ba má tôi. Ba tôi giờ vẫn là giám đốc sở, cái rò rỉ phó chủ tịch tỉnh chỉ là một kiểu bắn tin có ý, còn ông trung thực, một đời theo cách mạng, không mua chác chức quyền. Má tôi nói vô mấy lời tụi nó lỡ thương nhau vậy rồi, anh nghĩ thử…. Ba tôi vẫn im lặng.

     Chúng tôi đăng ký kết hôn rồi thuê nhà sống với nhau. Ngày Tâm sinh con trai, những đồng tiền dành dụm của tôi cạn kiệt dần. Hàng ngày má Tâm tới giúp mọi thứ. Tôi chạy xe ôm bằng chiếc xe máy cũ, thường đón khách trước cổng chợ, nơi ba Tâm ngồi sửa khóa. Một hôm ông bảo có muốn học nghề thì ông truyền cho, làm thêm lúc chờ khách. Tôi có khiếu mấy thứ điện tử, cơ khí nên học nhanh đến mức ông ngạc nhiên. Ông chỉ nhẹ nhàng nhắc, cái nghề này giỏi cũng sống được, cốt yếu phải trung thực, không tham lam. Cái chìa khóa, tiền công vài ngàn nhưng mở mọi kho tàng, chỉ giúp người chứ không làm cho bọn đạo chích…

     Thỉnh thoảng ông và má vợ tới thăm cháu ngoại, cho Tâm ít tiền, hộp sữa. Má tôi cũng lại chơi, thăm cháu nội, nấu sẵn mang tới món cá bống kho tiêu bà đẻ ăn chặt dạ hoặc tô canh giò heo hầm đu đủ xanh cho mẹ có sữa. Má chăm đẻ theo kinh nghiệm những bà già xưa.

     Má tôi nông dân rặt. Sau bảy lăm, vốn văn hóa vọc vạch chắp nối mấy chữ, lấy chồng sinh con là không muốn bổ túc bổ tung chi cho mệt, làm công nhân xí nghiệp khai thác cát, ti tan, chủ yếu bưng bê khuân vác. Khi ba tôi lên giám đốc sở, ông bảo bà nghỉ hưu sớm về chăm con. Chắc ông sĩ diện. Lãnh đạo ngành văn hóa, vừa xây dựng cái mới vừa tiếp tục phục hồi, phát huy truyền thống địa phương, võ và văn, bảo tồn tháp Chàm, hát bội, ca kịch bài chòi, tiếp khách văn hóa Sài Gòn, Hà Nội… Lại thêm hai đoàn nghệ thuật truyền thống lớn của đất nước, ở đó có nhiều em nghệ sĩ trẻ mặt hoa da phấn, còn vợ mình tạng nông dân làm nghề vai u thịt bắp, ăn nói quê mùa, cục mịch cũng xấu hổ. Thà vợ giám đốc chỉ là người phụ nữ của gia đình chăm lo chồng con… Ba tôi có cái lý của ông.

     Cũng dân thoát ly, yêu nhau đồng chí, rồi vợ quan chức nhưng má mãi là một nông dân chất phác. Bà có xuất thương binh, lương hưu non, hai xuất liệt sĩ của cha và anh trai. Lúc tôi được vài tuổi, bà ngoại mất. Sau này bà ngoại được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các khoản lương và phụ cấp chính sách cũng đủ cho má tôi tiêu pha, cùng lo toan mọi thứ. Ừ, thì nghỉ nhà nước.

     Bà có sao nói vậy, nghĩ gì nói nấy, hôm nào tới thăm mẹ con Tâm về cũng trầm trồ với ba tôi, chu cha, thằng cháu nhìn ghét lắm, khéo đúc sao mà… Nó còn giống ông nội hơn giống thằng cha nó…

     Khi thằng cu Bi biết đi lững chững, ba tôi nói má đón vợ chồng tôi về. Rồi tết đó nhờ chúng tôi báo trước để ba má tôi tới thăm nhà Tâm. Hai người đàn ông lúc đầu còn ngường ngượng, giữ kẽ. Nhưng khi thằng cháu bi bô gọi ông nội, ông ngoại, mọi khoảng cách đã hết. Hai người uống mấy ly rượu xuân, thăm hỏi xã giao chung chung nhưng cách nói chân tình, thân thiện. Trời à, hình như hai ông đã đi qua cái mắc kẹt mơ hồ lâu nay.

2.

     Tâm sinh thêm thằng Bo. Mấy tháng sau cô xin được việc làm ở một công ty tư nhân, đúng nghề kế toán đã học. Ba tôi nghỉ hưu. Tôi nghỉ xe ôm, mở tiệm sửa khóa tại nhà, lấy tên chúng tôi ghép lại: Thiện Tâm. Lúc đầu lai rai khách. Rồi việc quảng bá trên mạng giúp tôi thường xách túi đồ nghề sửa lưu động. Thương hiệu Thiện Tâm vang xa. Thằng Bi vào lớp một. Ngày ngày ông nội đưa đón cháu. Tôi ít khi ở nhà. Đêm hôm gà gáy gì, ai gọi là đi. Có lúc đi xa các huyện trong tỉnh. Rồi ngoài tỉnh. Có khi sang cả Lào, Cam pu chia. Chỉ cần hỏi rõ loại khóa gì, thỏa thuận tiền mọi thứ nhanh chóng, ô kê là đi.

     Công việc của Tâm cũng khá. Bản tính đàng hoàng, trung thực lại có trách nhiệm với công việc nên mấy năm sau cô làm kế toán trưởng công ty. Chúng tôi phụ tiền hàng tháng cho má chuyện ăn uống, sinh hoạt; ngoài chi phí cho hai thằng nhóc, phần tích lũy riêng của vợ chồng tôi từng năm cứ khá dần lên. Đã từng đi qua cuộc cơ hàn, tủi nhục, giờ tạm gọi đủ đầy, sáng láng bước ra đường, thằng Bi thằng Bo lanh lợi, học hành cũng có giấy khen, tôi nghĩ cuộc sống mình vậy là may mắn hơn bao người.

     Nhưng…

     Gần đây thấy má tôi lằng lặng, ít gần gũi thằng Bo mỗi khi tôi đón nó nhà trẻ về. Một lần sau chuyến đi sửa khóa mấy ngày về, bắt gặp vẻ buồn buồn của má, gặng hỏi, má tôi rơm rớm nước mắt, giọng hờn lẩy:
     - Con Tâm, cái gì má làm nó cũng không vừa ý!
     - Má, nhưng sao chứ, con không nghe Tâm nói gì?
     - Thằng Bo chơi phía trước chảy mũi nước, má lấy tay bắt mũi, nó vừa về thấy vậy la hoảng lên, “Úi nội! tay nội đang dơ. Sao không lấy khăn?”
     - Chậc, tưởng gì. Để con nói Tâm tế nhị hơn. Tính Tâm nó sạch sẽ quen rồi. Với lại má chịu khó chút, con thấy Tâm để nhiều khăn cháu mỗi phòng mà.
     - Tao quen rồi! Sớ lỡ… chứ có phải… À, tao dơ dáy chớ gì? Anh em mầy cũng lớn lên từ bà mẹ không “sạch sẽ” này đấy!
     - Má! Tôi kêu lên oan ức- con không có ý đó…
     Tôi biết mình lỡ lời. Tự dưng thấy mỏi mệt khủng khiếp. Niềm vui về nhà với gia đình bỗng hụt hẫng.
     Từng có lần Tâm than:
     -Ông bà nội chiều cháu quá, em nghiêm, gắt một chút với thằng Bi là nóng mặt, can thiệp ngay, có khi buồn buồn cả ngày. Hèn nào vợ chồng anh Đức, chị Ngân cưới nhau xong là ra ở riêng… Em không thấy cái tam đại, tứ đại đồng đường gì đó hay ho chút nào!
     Tôi ậm ừ, để từ từ tính.

     Nhưng dạo này Tâm cũng khang khác, ít chia sẻ. Chuyện giường chiếu vẫn đều đặn nhưng cô có vẻ chìu ý tôi hơn là tận hưởng. Đi ngủ thường nằm quay lưng, có lúc bảo mệt mỏi, sức ép công việc. Nhất là thời điểm cuối năm. Lễ lạt, tiếp khách, tổng kết công ty, một công ty đang ăn nên làm ra mà cô là kế toán trưởng.

     Tôi nằm nghĩ miên man, vừa thương Tâm vất vả, bao sức ép, vừa gợn nỗi chạnh lòng. Xe ga, váy áo hàng hiệu, làm tóc, làm móng, đồ trang sức, nước hoa sực nức… Có khi tiếp khách hai, ba đêm liền, chín, mười giờ mới về nhà, người có mùi rượu, bia. Tâm thường điện thoại về báo cho tôi biết để nhà không chờ cơm, nếu tôi sửa khóa xa thì điện cho má. Nói chung cô chưa có gì sai quấy. Nhưng cảm giác chúng tôi càng lúc càng có khoảng cách. Nó âm thầm len vào, không cụ thể việc gì cả nên càng khó gọi tên. Tôi nhớ thời gần hai năm nhà trọ, cái áo lạnh cho con cũng khéo sắp xếp mới mua được. Đêm đông lạnh, vợ chồng sưởi cho nhau bằng hơi ấm của mình. Sẻn so từng món quà nghèo đầy tự trọng khi bạn bè mời đầy tháng, sinh nhật con. Sĩ diện và ngẩng cao đầu, không sợ bất kỳ kẻ quyền thế, giàu có nào. Mà mọi thứ luôn tâm đầu ý hợp. Giờ tiền bạc thong thả, sao lẩn quất những âu lo, muộn phiền?

     Có khi đơn giản, kiểu xem một bộ phim cũng tranh luận không vui. “Điệp viên 007” chẳng hạn. Diễn viên đóng James Bond từ S. Conery đến R. More, T. Dalton, Pierce Brosnan, người hào hoa, người quyến rũ, phong trần, người thông thái điềm tĩnh, người lãng tử đến mức nam, nữ đều ngất ngây… Đến khi Daniel Craig với chất gai góc hững hờ, lại thông minh sắc bén, lối diễn chân thật, rất đời, đúng với nhân vật trong tiểu thuyết của Ian Fleming. Tâm thích những diễn viên thế hệ trước, nhất là Pierce hào hoa, lãng tử còn tôi thích Daniel Craig gần với đời sống, rất thật chứ không giống diễn trên màn ảnh. Cả biểu hiện rất người: lộ vẻ căng thẳng lúc nguy nan… Vậy là tôi với Tâm tranh luận, phim và đời. Chất đàn ông thế nào man hơn. Khác nhau về cảm nhận, sở thích là thường, nhưng khi Tâm cứ khăng khăng: “Đàn ông dù phim, dù đời phải ga lăng, hào hoa mới quyến rũ nữ giới chứ thiệt thà đơn giản quá cũng ớn”…

     Tôi im lặng ngay khi nghe cô nói câu đó. Những váy áo, giày, đồ trang sức, nước hoa của cô hiện lên. Dù hai con vẫn mới ba mươi, có nhan sắc và cốt cách sang quý, hẳn vây quanh cô bao kẻ săn đón, chiều nịnh. Còn tôi chỉ là một người thợ sửa khóa, nửa đêm gà gáy gì ai gọi cũng xách đồ nghề đi kiếm tiền. Xa mấy ngày cũng đi, mừng cầm vài trăm, vài triệu về cho gia đình. Thu nhập hàng tháng của tôi chưa được một nửa Tâm. Trong tôi, hay Tâm, hay cả hai đang có sự liên tưởng, so sánh nguy hiểm?

     Ga lăng, hào hoa chắc chắn không hề là tôi nhưng thế giới đầy quyến rũ ấy Tâm tiếp xúc nhiều. Tôi thừa lòng tự trọng để không ngăn cản chuyện Tâm đi học khiêu vũ hoặc gia nhập câu lạc bộ tennis, học lái ô tô, bởi đây là những thụ hưởng chính đáng nếu có điều kiện, nếu yêu thích. Cô thừa hưởng năng khiếu văn nghệ từ người cha sĩ quan chế độ cũ của mình nên hát hay, nhảy đẹp. Tôi đang tạo điều kiện cho Tâm rời xa mình chăng? Có thể. Con người vốn mong manh trước cám dỗ hơn họ tưởng. Nhưng nếu hành xử khác đi, là tôi tự giết chết tình yêu của mình khi trở thành kẻ mạt hạng nhăm nhăm ý tưởng sở hữu.

     Tâm thương con, chăm sóc con rất chu đáo. Có vẻ tình yêu trước đây dành cho tôi cô đã san sẻ phần nhiều sang con, dù tình cảm không phải là thứ có thể cân lượng, dù tình cảm không phải là ngân khoản cố định: nó có thể sinh lợi mênh mông và cũng có thể cạn kiệt chẳng biết tiêu pha lẽ gì hoặc ai đã đánh cắp.

     Ở giải tennis các doanh nghiệp cấp khu vực, trước đó cô hào hứng tập luyện, và đánh thắng một mạch, vào đến vòng bán kết, được đánh giá ứng viên vô địch. Tâm quyết định bỏ cuộc vì thằng Bo đau quai bị, nhập viện. Dù có ông bà nội và tôi, thỉnh thoảng ông bà ngoại cũng chạy lại bên cháu, mọi người động viên Tâm cứ thi đấu, cô vẫn kiên quyết dừng giải, dành mấy ngày cao điểm bên con, nhất nhất giúp con thực hiện những kiêng cữ cần thiết- cái bệnh có thể dẫn tới vô sinh sau này.

     Những ngày ở bên con, Tâm vẫn ăn mặc tinh tươm vốn sẵn, nhưng không hề trang điểm, trang sức. Lặng lẽ quan sát cô chăm sóc con, từ miếng ăn, giấc ngủ, ngồi trò chuyện hàng giờ cho con đỡ chán, dùng khăn thấm chút mồ hôi trên trán con…, tôi ngạc nhiên thấy cô đẹp lạ, vẻ đẹp tôi chưa từng cảm thấu rõ ràng như bây giờ. Có thể nhờ một tình thế nhất định, có thể từ những lo âu mơ hồ trong tôi, hoặc tôi đã thay đổi cách nhìn.
     -Bỏ giải em có tiếc không?
     -Tiếc chứ. Công ty cũng thăn thỉ em thi đấu. Nhưng đó chỉ là trò chơi. Giải trí thôi mà.
     -Cám ơn em. Dù sao, anh vẫn có thể chăm con chu toàn?
     -Em luôn tin điều đó.
     -Anh cũng thấy tiếc. Đáng lý anh đã có thể chúc mừng em…
     -Em không chắc lắm đâu, những điều chưa xảy ra… Cô dừng một chút như đang nghĩ ngợi điều gì- nhưng em luôn biết chắc rằng, mình là một người mẹ!
     Những ngày sau đi làm, Tâm trở lại là người phụ nữ sang trọng, quyến rũ như trước.

3.

     Thói quen đọc báo hàng ngày ba tôi vẫn luôn duy trì suốt từ hồi về hưu tới giờ. Càng lúc ông càng buồn bực, thậm chí cáu gắt vô cớ vì những tin tức đầy rẫy trên mặt báo. Hiện trạng tha hóa, biến chất cán bộ từ trung ương đến địa phương, từ dân chính đến công an, quân đội; đầy rẫy sai phạm kiểu lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ; sự đối kháng của người dân từ những chính sách về đất đai hoặc tình thế đất nước bị o ép, khó khăn nhiều mặt… Nhiều lúc ông quẳng tờ báo, lầu bầu: “báo với chí!” Chẳng biết ông thất vọng về cách báo đưa tin hay nội dung những bài báo.

     Những cán bộ dưới quyền cũ thỉnh thoảng đến chơi hỏi ý kiến ông chuyện này chuyện kia, người thực lòng ông chân tình góp ý, kẻ vụ lợi ông một mực từ chối với cái lý mình đã về hưu, không lạm bàn. Gặp bạn bè cũ thời trên núi, ba tôi phấn chấn hẳn lên, chuyện vãn gì rồi cũng hàn huyên về thời gian lao, sống chết có nhau, nhắc tới những người bạn đã hy sinh, những người cùng thời sau Bảy lăm ai thăng tiến, thành đạt, ai tù tội… Ông lắng nghe bạn nói lời thất vọng, chán nản về những biến chất con người, xã hội bây giờ, nhưng im lặng, không bình luận gì.

     Ba tôi thuộc tạng người khó thể phủ nhận, phỉ báng con đường mình từng đi.

     Khi anh Đức về thưa ba chuyện nghỉ việc cơ quan, tập trung cho cửa hàng xe đạp điện với vợ, ông hơi chau mày một chút rồi hỏi:
     -Sao nghỉ? Con học hành đàng hoàng, đang trong cơ cấu sao lại bỏ?
     -Con nghĩ kỹ rồi ba. Con không hợp với kiểu công chức uể oải, tẻ nhạt một cách khuôn mẫu bây giờ. Hết một đời dựa dật đồng lương, chứng kiến những chướng tai gai mắt ở cơ quan, cạnh tranh đấu đá, hoặc ngoan hiền ẩn nhẫn chờ thời hoặc cầu cạnh lấy lòng cấp trên để tiến thân cho đến khi nghỉ hưu như ba chắc con không chịu nổi!
     Ba tôi ngạc nhiên nghe anh Đức nói thẳng tuột ý nghĩ của mình. Im lặng một lát, ông nhẹ nhàng:
     -Tùy con.

     Cũng đã lâu rồi, ông không nói câu “gia đình mình truyền thống cách mạng” như niềm tự hào, như gợi ý, nhắc nhở vợ con. Gần nhất là hồi vợ chồng tôi mới về, trong mâm cơm tất niên, nhân việc anh Đức than chuyện cơ quan giờ ai cũng nhăm nhăm kiếm tiền, tranh thủ những toan tính có lợi cho mình, những cuộc họp đều nói với nhau điều giả trá, thấy chán, ba nói câu ấy để động viên anh Đức thôi chứ không có ý gì khác. Tôi thấy mặt Tâm thoảng rung động. Cô ăn vội chút gì đó trong chén rồi xin phép đứng dậy trước.

     Má tôi tuy có lúc tự ái, hờn lẩy Tâm nhưng rồi cái hồn nhiên quấn quýt của thằng Bi, thằng Bo cũng khiến bà nội vui và bận rộn chiều cháu. Ông nội còn cưng chiều hơn, lúc nào cũng sẵn mấy bì bánh ngon cho cháu. Chủ nhật thường tổ chức cả nhà đi ăn sáng, cà phê, hôm sắp xếp được, nhà anh hai cũng về. Bi, Bo có hai chị gái con anh Đức cũng thương, chiều em, sướng lắm.

     Tâm có lúc cùng đi, cũng cố hòa nhập với không khí gia đình nhưng có gì không thật thoải mái. Khác hẳn với những lần chúng tôi đưa con về ngoại chơi. Ông bà ngoại cũng thương chìu cháu lâu lâu về mà, nhưng thấy quá một chút là Tâm can thiệp ngay, nhẹ nhàng và tự tin, dứt khoát. Ông bà ngoại cũng cứ vui, không khí gia đình ấm áp tình cảm.

     Nhà ngoại gần đây đã có cái ti vi màn hình let, một số tiện ích khác thay thế những đồ cũ mấy chục năm. Hai anh trai của Tâm, người Gia Lai, người Bình Dương giờ làm ăn khá, mỗi lần về là sắm sửa cho cha mẹ. Mỗi lần xẹt qua năm, ba phút, Tâm cũng thường ép dúi vào tay mẹ mấy trăm.

     Tôi thích những đồ vật cũ: cái đồng hồ tường, cái giỏ bình trà ba Tâm đan bằng dây điện từ hồi ở lính, cái máy đĩa Akai, cái tivi đen trắng Sony 9 inch, cái máy ảnh Canon, mấy quẹt Zippo, cái kính pilot… Có thứ đang hoạt động, có thứ đã hỏng hoặc quá lâu không sử dụng nhưng được kê, đặt ngay ngắn trên kệ, tủ. Sạch sẽ, tinh tươm. Một không gian khác với nhà tôi, khác với nhiều nhà thịnh phát bây giờ: có hồn, xưa cũ và đầy tự trọng.

     Ba vợ tôi đã ngoài bảy mươi, vẫn ngồi sửa khóa trước chợ. Má vẫn nồi xôi bán trước nhà. Mỗi lần qua nhà, tôi thường nói chuyện sửa khóa với cha vợ, những khó khăn các loại khóa mới, những tình huống, tiếp xúc, vui buồn mấy chuyến đi xa. Ông lắng nghe, điềm đạm chia sẻ những kinh nghiệm.

     Tôi biết mình dễ dàng thân thiết với ngôi nhà này hơn Tâm với nhà tôi. Tôi càng thương quý cô. Thời yêu nhau ban đầu, chúng tôi thừa lãng mạn và hiếu thắng, tự tin sẽ vượt qua mọi khó khăn. Giờ đối diện những vướng mắc không dễ gỡ. Lại thêm hai thằng con xinh như mộng, …

     Nhưng tách ra ở riêng theo ý Tâm, ba má tôi sẽ hụt hẫng lớn. Má tôi nông dân, đơn giản hơn, còn niềm vui duy nhất của ba tôi bây giờ là hai đứa cháu nội, ba sẽ rất xốc.

4.

     Chuông điện thoại hãm âm nho nhỏ, từ giấc ngủ tôi vọng ra. Tâm trở mình. Đồng hồ tường đã gần hai giờ sáng. Tôi nhoài người bắt máy.
     -Sửa khóa Thiện Tâm phải không ạ?
     -Dạ, Thiện Tâm nghe.
     -Anh ơi, em ở 12xx… Trần Hưng Đạo, anh giúp mở dùm khóa nhà, em làm mất khóa…
     -Chị để sáng mai được không, mới hai giờ…
     -Không được anh ơi, anh chịu khó giúp dùm, bao nhiêu tiền cũng được… Chồng em đi công tác sắp về… Em cứ nghĩ chiều mai ảnh mới… Anh giúp dùm! Cầu xin anh đấy!…
     Một ca quen thuộc. Chồng bất ngờ về sớm hơn dự định. Những người đàn bà thị thành thời nay của những gia đình giàu có, thành đạt, khi chồng đại gia hoặc quan chức miệt mài tìm em út, bồ nhí trẻ trung bên ngoài, vợ cũng tranh thủ sống, chuyện “chả”- “nem” khá cân bằng nhau. Người ngoài nhìn vào luôn thấy một mô hình gia đình hạnh phúc, sang quý đáng mơ ước.

     Cha vợ dạy tôi bài học về đạo đức người thợ sửa khóa: lương tâm và sự trung thực. Giúp người là chính. Tôi lại sẽ giúp người phụ nữ khách hàng này an toàn về đức hạnh với chồng cô ta thôi. Giúp cô ta chuyện lừa dối chồng, tôi có vi phạm đạo đức nghề sửa khóa không? Tôi không biết. Thôi đó là chuyện người, hơi sức đâu “lo bò chết hổng hòm”.

     Còn chuyện mình?

     Tôi nhìn Tâm. Khi cô trở người nằm nghiêng tự nhiên, chân co chân dũi, cái áo ngủ đã xếch lên tùy tiện và hờ hững quá đùi- một sự hớ hênh của đoan chính đầy cuốn hút.

     Tôi chỉ là thợ sửa khóa giỏi. Tất tần tật các loại khóa, từ xưa cũ đến hiện đại trục trặc, khô dầu lờn bi, mắc kẹt kiểu gì tôi đều sửa được…

MẮC KẸT - Truyện ngắn của Lê Hoài Lương – Hội văn học nghệ thuật Bình Định

Truyện ngắn của Lê Hoài Lương – Hội văn học nghệ thuật Bình Định - sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 9/2020.

MẮC KẸT

1.

     Tôi là thợ sửa khóa nổi tiếng. Thời công nghệ số, tiếng chưa chắc đã lành, cũng có cơ hội “đồn xa”. Nghề dạy nghề đã đành, thông tin mạng hỗ trợ rất nhiều. Các loại khóa tôi đều sửa được. Khóa US, khóa Việt Tiệp, khóa Viro thời xa lắc đến vô vàn các loại khóa mới hiện nay: Hafele, Yale, Abus, Titalium, KINBar…, các loại khóa mã số UNICOR, HILUX… Các kiểu khóa xe máy, ô tô đủ chủng loại từ đồng nát nhôm nhựa đến đại gia, khóa két sắt cá nhân, két sắt ngân hàng, khóa xe quân sự, xe tăng, xe thiết giáp tôi đều chinh phục. Chỉ chưa sửa khóa máy bay vì chưa ai kêu.

     Nghề khóa tôi học từ cha vợ. Nếu tôi và Tâm không yêu nhau và quyết tâm làm vợ chồng, chắc chắn tôi không có nghề sửa khóa.

*

     Ba tôi thoát ly tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi. Ông nội tôi tập kết. Dù ông tôi gốc chánh tổng, học chữ Nho, nhà khá giả, nhưng thấy Việt Minh tốt đẹp mọi bề, với khát vọng độc lập tự do, cơm no áo ấm dân tộc nên ông nồng nhiệt dâng hiến cho cách mạng. Sau này ở ngoài bắc ông có bà nội hai trẻ hơn mười mấy tuổi, còn bà nội tôi một đời nuôi con, lo phần hương khói nhà chồng. Lý tưởng của ông nội, ba tôi nối tiếp, đơn giản người ta móc nối con gia đình cách mạng, ba tham gia hoạt động nội thành từ thời trung học, sau bị lộ, đường dây đưa lên núi năm đệ tứ. Thời này, chữ nghĩa ba tôi tạng hiếm trên núi nên được phân công về Ban Tuyên huấn, rồi vào Đội Võ trang tuyên truyền, viết truyền đơn, viết những bài vần vè thơ phú đơn giản để tuyên truyền địch vận, tuyên truyền đồng bào yêu nước, yêu cách mạng, vân vân. Cũng vào sinh ra tử mấy bận nhưng may, sau Bảy lăm chỉ vài vết thương xoàng. Nhờ chữ nghĩa và văn vẻ thời chiến, ba tôi được điều về ngành văn hóa thời bình. Vừa làm vừa học thôi, hàm thụ, tại chức, đào tạo cán bộ. Gì chớ học vấn ba tôi những ngày đầu hòa bình trong các cơ quan ban ngành tỉnh cũng không nhiều. Và với nỗ lực học hỏi của mình, ba tôi là một cán bộ ngành thực sự có năng lực, uy tín, mới ngoài bốn mươi ông đã là giám đốc sở. Trẻ nhất tỉnh lúc bấy giờ. Mấy nhiệm kỳ giám đốc, cho tới thời điểm tôi kể câu chuyện tôi và Tâm.

   Nhà có hai anh em, anh Đức tôi học hành ngon lành, đỗ đại học rồi có việc làm một cơ quan nhà nước. Tôi ham chơi, học hành lạch ạch. Trầy trật mãi mới xong phổ thông, rồi vào trường Trung cấp Kỹ thuật cơ điện, cái trường của chế độ trước để lại, chủ yếu đào tạo các nghề điện, cơ khí. Thời thành phố tôi đình đám buôn lậu hàng tàu, những tivi cũ được dân tàu biển đi Nhật mua về bán sô, dân góp tiền chạy thuyền máy ra mua từng lô hàng cả trăm cái. Về căn bản hàng cũ của Nhật thải ra đều còn xài tốt, những cái lênh đênh trên biển lâu ngày ẩm IC, sửa chữa tí là xong. Rồi mày mò chuyển tivi đen trắng sang tivi màu… Tôi vốn ưa thích mấy việc này nên nắm nghề nhanh, việc cứ ro ro, làm không xuể. Ngon ăn lắm, mỗi ngày có khi kiếm cả chỉ vàng. Má tôi hết ca cẩm. Ba tôi hài lòng, kệ nó, làm ăn đàng hoàng, lương thiện, sống được là tốt.

   Tôi gặp Tâm từ lần sửa cái tivi màu bị xịt hồi cô còn học 12. Chỗ tôi thuê làm nghề trước hẻm nhà cô. Ngày ngày Tâm đi bộ tới trường ngang qua, chẳng biết sao những lúc ấy tôi phải ngước lên nhìn cô, cười chào. Rồi hẹn nhau đi coi phim rạp, đi uống nước mía.

     Chúng tôi yêu nhau như lẽ tự nhiên. Tâm đẹp, cốt cách sang quý, dù áo quần cô mặc tạng vải rẻ tiền nhưng bao giờ cũng chỉn chu, tinh tươm. Tâm vào đại học cũng trên địa bàn thành phố, chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Khi cô ra trường, xin việc mãi không được, ở nhà phụ mẹ bán nồi xôi sáng. Chúng tôi quyết định báo gia đình, chuyện cưới. Hai nhà đều biết loáng thoáng chúng tôi yêu nhau mấy năm nay. Nhưng…
     - Sao con không nói với ba? Gia đình mình truyền thống cách mạng, giờ ba làm sui với sĩ quan ngụy à? Ba đương chức, khóa tới cơ cấu lên phó chủ tịch tỉnh… Thôi thôi, con còn trẻ, con gái thiếu gì, con nhà xích lô ba gác cũng được chứ con Tâm thì không!
     - Ba thấy thằng Thiện tâm tính cũng được. Nhưng cứ tưởng nó con nhà lao động chớ ai dè con quan chức. Đủ rồi! Sáu năm trong trại cải tạo với ba là đủ rồi! Ba không thể!... Mà con ngó ngôi nhà rách trong hẻm của mình coi, ngó ba còng lưng ngoài chợ sửa khóa, má con với cái nồi xôi bán cho dân lao động cực nhọc… Không! Người ta nhà cao cửa rộng, ô tô đưa đón. Ba không thể!

     Dù đã dự lường, tôi và Tâm vẫn thấy hụt hẫng. Nhưng cứ kiên trì gặp nhau. Chúng tôi thừa cái hiếu thắng của tuổi trẻ để tin rằng chuyện người lớn, chuyện chính trị, thắng thua của một thời chẳng dính dáng gì tới tình yêu chúng tôi. Sinh ra lúc đất nước đã hòa bình, thống nhất, sao chúng tôi phải chịu trách nhiệm về một thời bắn giết nhau? Càng khó khăn, chúng tôi càng yêu nhau, càng quyết tâm vượt qua. Nhiều lần ràn rụa nước mắt trong vòng tay nhau, chúng tôi nghĩ tới mối tình Romeo Juliet hóa giải hận thù. Chúng tôi thấy tình yêu của mình đẹp nhất trần gian. Dù vẫn gờn gợn về một tương lai nhiều bất trắc, nhưng quyết không lìa nhau, đời này kiếp này; sẽ làm những công việc cực nhọc nhất để kiếm sống và chắc chắn sẽ mãi hạnh phúc cùng những đứa con đẹp như thiên thần của mình…- chúng tôi nhiều lần nói về những điều thật lãng mạn như vậy.

     Khi tỉnh kiên quyết triệt đường dây buôn lậu hàng tàu, nó ló ngay ở cảng khác, tỉnh khác. Thành phố chúng tôi lơ ngơ mất mấy năm: nguồn tiền các nơi đổ về đứt phựt, đứt theo cái nghề hái ra tiền của tôi. Là lúc Tâm có bầu.

     Tôi đến nhà thưa ba má Tâm tác thành cho chúng tôi trong sự cam chịu và ánh mắt rưng rưng xin lỗi của Tâm. Ba Tâm im lặng thở dài. Tôi thưa ba má tôi. Ba tôi giờ vẫn là giám đốc sở, cái rò rỉ phó chủ tịch tỉnh chỉ là một kiểu bắn tin có ý, còn ông trung thực, một đời theo cách mạng, không mua chác chức quyền. Má tôi nói vô mấy lời tụi nó lỡ thương nhau vậy rồi, anh nghĩ thử…. Ba tôi vẫn im lặng.

     Chúng tôi đăng ký kết hôn rồi thuê nhà sống với nhau. Ngày Tâm sinh con trai, những đồng tiền dành dụm của tôi cạn kiệt dần. Hàng ngày má Tâm tới giúp mọi thứ. Tôi chạy xe ôm bằng chiếc xe máy cũ, thường đón khách trước cổng chợ, nơi ba Tâm ngồi sửa khóa. Một hôm ông bảo có muốn học nghề thì ông truyền cho, làm thêm lúc chờ khách. Tôi có khiếu mấy thứ điện tử, cơ khí nên học nhanh đến mức ông ngạc nhiên. Ông chỉ nhẹ nhàng nhắc, cái nghề này giỏi cũng sống được, cốt yếu phải trung thực, không tham lam. Cái chìa khóa, tiền công vài ngàn nhưng mở mọi kho tàng, chỉ giúp người chứ không làm cho bọn đạo chích…

     Thỉnh thoảng ông và má vợ tới thăm cháu ngoại, cho Tâm ít tiền, hộp sữa. Má tôi cũng lại chơi, thăm cháu nội, nấu sẵn mang tới món cá bống kho tiêu bà đẻ ăn chặt dạ hoặc tô canh giò heo hầm đu đủ xanh cho mẹ có sữa. Má chăm đẻ theo kinh nghiệm những bà già xưa.

     Má tôi nông dân rặt. Sau bảy lăm, vốn văn hóa vọc vạch chắp nối mấy chữ, lấy chồng sinh con là không muốn bổ túc bổ tung chi cho mệt, làm công nhân xí nghiệp khai thác cát, ti tan, chủ yếu bưng bê khuân vác. Khi ba tôi lên giám đốc sở, ông bảo bà nghỉ hưu sớm về chăm con. Chắc ông sĩ diện. Lãnh đạo ngành văn hóa, vừa xây dựng cái mới vừa tiếp tục phục hồi, phát huy truyền thống địa phương, võ và văn, bảo tồn tháp Chàm, hát bội, ca kịch bài chòi, tiếp khách văn hóa Sài Gòn, Hà Nội… Lại thêm hai đoàn nghệ thuật truyền thống lớn của đất nước, ở đó có nhiều em nghệ sĩ trẻ mặt hoa da phấn, còn vợ mình tạng nông dân làm nghề vai u thịt bắp, ăn nói quê mùa, cục mịch cũng xấu hổ. Thà vợ giám đốc chỉ là người phụ nữ của gia đình chăm lo chồng con… Ba tôi có cái lý của ông.

     Cũng dân thoát ly, yêu nhau đồng chí, rồi vợ quan chức nhưng má mãi là một nông dân chất phác. Bà có xuất thương binh, lương hưu non, hai xuất liệt sĩ của cha và anh trai. Lúc tôi được vài tuổi, bà ngoại mất. Sau này bà ngoại được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các khoản lương và phụ cấp chính sách cũng đủ cho má tôi tiêu pha, cùng lo toan mọi thứ. Ừ, thì nghỉ nhà nước.

     Bà có sao nói vậy, nghĩ gì nói nấy, hôm nào tới thăm mẹ con Tâm về cũng trầm trồ với ba tôi, chu cha, thằng cháu nhìn ghét lắm, khéo đúc sao mà… Nó còn giống ông nội hơn giống thằng cha nó…

     Khi thằng cu Bi biết đi lững chững, ba tôi nói má đón vợ chồng tôi về. Rồi tết đó nhờ chúng tôi báo trước để ba má tôi tới thăm nhà Tâm. Hai người đàn ông lúc đầu còn ngường ngượng, giữ kẽ. Nhưng khi thằng cháu bi bô gọi ông nội, ông ngoại, mọi khoảng cách đã hết. Hai người uống mấy ly rượu xuân, thăm hỏi xã giao chung chung nhưng cách nói chân tình, thân thiện. Trời à, hình như hai ông đã đi qua cái mắc kẹt mơ hồ lâu nay.

2.

     Tâm sinh thêm thằng Bo. Mấy tháng sau cô xin được việc làm ở một công ty tư nhân, đúng nghề kế toán đã học. Ba tôi nghỉ hưu. Tôi nghỉ xe ôm, mở tiệm sửa khóa tại nhà, lấy tên chúng tôi ghép lại: Thiện Tâm. Lúc đầu lai rai khách. Rồi việc quảng bá trên mạng giúp tôi thường xách túi đồ nghề sửa lưu động. Thương hiệu Thiện Tâm vang xa. Thằng Bi vào lớp một. Ngày ngày ông nội đưa đón cháu. Tôi ít khi ở nhà. Đêm hôm gà gáy gì, ai gọi là đi. Có lúc đi xa các huyện trong tỉnh. Rồi ngoài tỉnh. Có khi sang cả Lào, Cam pu chia. Chỉ cần hỏi rõ loại khóa gì, thỏa thuận tiền mọi thứ nhanh chóng, ô kê là đi.

     Công việc của Tâm cũng khá. Bản tính đàng hoàng, trung thực lại có trách nhiệm với công việc nên mấy năm sau cô làm kế toán trưởng công ty. Chúng tôi phụ tiền hàng tháng cho má chuyện ăn uống, sinh hoạt; ngoài chi phí cho hai thằng nhóc, phần tích lũy riêng của vợ chồng tôi từng năm cứ khá dần lên. Đã từng đi qua cuộc cơ hàn, tủi nhục, giờ tạm gọi đủ đầy, sáng láng bước ra đường, thằng Bi thằng Bo lanh lợi, học hành cũng có giấy khen, tôi nghĩ cuộc sống mình vậy là may mắn hơn bao người.

     Nhưng…

     Gần đây thấy má tôi lằng lặng, ít gần gũi thằng Bo mỗi khi tôi đón nó nhà trẻ về. Một lần sau chuyến đi sửa khóa mấy ngày về, bắt gặp vẻ buồn buồn của má, gặng hỏi, má tôi rơm rớm nước mắt, giọng hờn lẩy:
     - Con Tâm, cái gì má làm nó cũng không vừa ý!
     - Má, nhưng sao chứ, con không nghe Tâm nói gì?
     - Thằng Bo chơi phía trước chảy mũi nước, má lấy tay bắt mũi, nó vừa về thấy vậy la hoảng lên, “Úi nội! tay nội đang dơ. Sao không lấy khăn?”
     - Chậc, tưởng gì. Để con nói Tâm tế nhị hơn. Tính Tâm nó sạch sẽ quen rồi. Với lại má chịu khó chút, con thấy Tâm để nhiều khăn cháu mỗi phòng mà.
     - Tao quen rồi! Sớ lỡ… chứ có phải… À, tao dơ dáy chớ gì? Anh em mầy cũng lớn lên từ bà mẹ không “sạch sẽ” này đấy!
     - Má! Tôi kêu lên oan ức- con không có ý đó…
     Tôi biết mình lỡ lời. Tự dưng thấy mỏi mệt khủng khiếp. Niềm vui về nhà với gia đình bỗng hụt hẫng.
     Từng có lần Tâm than:
     -Ông bà nội chiều cháu quá, em nghiêm, gắt một chút với thằng Bi là nóng mặt, can thiệp ngay, có khi buồn buồn cả ngày. Hèn nào vợ chồng anh Đức, chị Ngân cưới nhau xong là ra ở riêng… Em không thấy cái tam đại, tứ đại đồng đường gì đó hay ho chút nào!
     Tôi ậm ừ, để từ từ tính.

     Nhưng dạo này Tâm cũng khang khác, ít chia sẻ. Chuyện giường chiếu vẫn đều đặn nhưng cô có vẻ chìu ý tôi hơn là tận hưởng. Đi ngủ thường nằm quay lưng, có lúc bảo mệt mỏi, sức ép công việc. Nhất là thời điểm cuối năm. Lễ lạt, tiếp khách, tổng kết công ty, một công ty đang ăn nên làm ra mà cô là kế toán trưởng.

     Tôi nằm nghĩ miên man, vừa thương Tâm vất vả, bao sức ép, vừa gợn nỗi chạnh lòng. Xe ga, váy áo hàng hiệu, làm tóc, làm móng, đồ trang sức, nước hoa sực nức… Có khi tiếp khách hai, ba đêm liền, chín, mười giờ mới về nhà, người có mùi rượu, bia. Tâm thường điện thoại về báo cho tôi biết để nhà không chờ cơm, nếu tôi sửa khóa xa thì điện cho má. Nói chung cô chưa có gì sai quấy. Nhưng cảm giác chúng tôi càng lúc càng có khoảng cách. Nó âm thầm len vào, không cụ thể việc gì cả nên càng khó gọi tên. Tôi nhớ thời gần hai năm nhà trọ, cái áo lạnh cho con cũng khéo sắp xếp mới mua được. Đêm đông lạnh, vợ chồng sưởi cho nhau bằng hơi ấm của mình. Sẻn so từng món quà nghèo đầy tự trọng khi bạn bè mời đầy tháng, sinh nhật con. Sĩ diện và ngẩng cao đầu, không sợ bất kỳ kẻ quyền thế, giàu có nào. Mà mọi thứ luôn tâm đầu ý hợp. Giờ tiền bạc thong thả, sao lẩn quất những âu lo, muộn phiền?

     Có khi đơn giản, kiểu xem một bộ phim cũng tranh luận không vui. “Điệp viên 007” chẳng hạn. Diễn viên đóng James Bond từ S. Conery đến R. More, T. Dalton, Pierce Brosnan, người hào hoa, người quyến rũ, phong trần, người thông thái điềm tĩnh, người lãng tử đến mức nam, nữ đều ngất ngây… Đến khi Daniel Craig với chất gai góc hững hờ, lại thông minh sắc bén, lối diễn chân thật, rất đời, đúng với nhân vật trong tiểu thuyết của Ian Fleming. Tâm thích những diễn viên thế hệ trước, nhất là Pierce hào hoa, lãng tử còn tôi thích Daniel Craig gần với đời sống, rất thật chứ không giống diễn trên màn ảnh. Cả biểu hiện rất người: lộ vẻ căng thẳng lúc nguy nan… Vậy là tôi với Tâm tranh luận, phim và đời. Chất đàn ông thế nào man hơn. Khác nhau về cảm nhận, sở thích là thường, nhưng khi Tâm cứ khăng khăng: “Đàn ông dù phim, dù đời phải ga lăng, hào hoa mới quyến rũ nữ giới chứ thiệt thà đơn giản quá cũng ớn”…

     Tôi im lặng ngay khi nghe cô nói câu đó. Những váy áo, giày, đồ trang sức, nước hoa của cô hiện lên. Dù hai con vẫn mới ba mươi, có nhan sắc và cốt cách sang quý, hẳn vây quanh cô bao kẻ săn đón, chiều nịnh. Còn tôi chỉ là một người thợ sửa khóa, nửa đêm gà gáy gì ai gọi cũng xách đồ nghề đi kiếm tiền. Xa mấy ngày cũng đi, mừng cầm vài trăm, vài triệu về cho gia đình. Thu nhập hàng tháng của tôi chưa được một nửa Tâm. Trong tôi, hay Tâm, hay cả hai đang có sự liên tưởng, so sánh nguy hiểm?

     Ga lăng, hào hoa chắc chắn không hề là tôi nhưng thế giới đầy quyến rũ ấy Tâm tiếp xúc nhiều. Tôi thừa lòng tự trọng để không ngăn cản chuyện Tâm đi học khiêu vũ hoặc gia nhập câu lạc bộ tennis, học lái ô tô, bởi đây là những thụ hưởng chính đáng nếu có điều kiện, nếu yêu thích. Cô thừa hưởng năng khiếu văn nghệ từ người cha sĩ quan chế độ cũ của mình nên hát hay, nhảy đẹp. Tôi đang tạo điều kiện cho Tâm rời xa mình chăng? Có thể. Con người vốn mong manh trước cám dỗ hơn họ tưởng. Nhưng nếu hành xử khác đi, là tôi tự giết chết tình yêu của mình khi trở thành kẻ mạt hạng nhăm nhăm ý tưởng sở hữu.

     Tâm thương con, chăm sóc con rất chu đáo. Có vẻ tình yêu trước đây dành cho tôi cô đã san sẻ phần nhiều sang con, dù tình cảm không phải là thứ có thể cân lượng, dù tình cảm không phải là ngân khoản cố định: nó có thể sinh lợi mênh mông và cũng có thể cạn kiệt chẳng biết tiêu pha lẽ gì hoặc ai đã đánh cắp.

     Ở giải tennis các doanh nghiệp cấp khu vực, trước đó cô hào hứng tập luyện, và đánh thắng một mạch, vào đến vòng bán kết, được đánh giá ứng viên vô địch. Tâm quyết định bỏ cuộc vì thằng Bo đau quai bị, nhập viện. Dù có ông bà nội và tôi, thỉnh thoảng ông bà ngoại cũng chạy lại bên cháu, mọi người động viên Tâm cứ thi đấu, cô vẫn kiên quyết dừng giải, dành mấy ngày cao điểm bên con, nhất nhất giúp con thực hiện những kiêng cữ cần thiết- cái bệnh có thể dẫn tới vô sinh sau này.

     Những ngày ở bên con, Tâm vẫn ăn mặc tinh tươm vốn sẵn, nhưng không hề trang điểm, trang sức. Lặng lẽ quan sát cô chăm sóc con, từ miếng ăn, giấc ngủ, ngồi trò chuyện hàng giờ cho con đỡ chán, dùng khăn thấm chút mồ hôi trên trán con…, tôi ngạc nhiên thấy cô đẹp lạ, vẻ đẹp tôi chưa từng cảm thấu rõ ràng như bây giờ. Có thể nhờ một tình thế nhất định, có thể từ những lo âu mơ hồ trong tôi, hoặc tôi đã thay đổi cách nhìn.
     -Bỏ giải em có tiếc không?
     -Tiếc chứ. Công ty cũng thăn thỉ em thi đấu. Nhưng đó chỉ là trò chơi. Giải trí thôi mà.
     -Cám ơn em. Dù sao, anh vẫn có thể chăm con chu toàn?
     -Em luôn tin điều đó.
     -Anh cũng thấy tiếc. Đáng lý anh đã có thể chúc mừng em…
     -Em không chắc lắm đâu, những điều chưa xảy ra… Cô dừng một chút như đang nghĩ ngợi điều gì- nhưng em luôn biết chắc rằng, mình là một người mẹ!
     Những ngày sau đi làm, Tâm trở lại là người phụ nữ sang trọng, quyến rũ như trước.

3.

     Thói quen đọc báo hàng ngày ba tôi vẫn luôn duy trì suốt từ hồi về hưu tới giờ. Càng lúc ông càng buồn bực, thậm chí cáu gắt vô cớ vì những tin tức đầy rẫy trên mặt báo. Hiện trạng tha hóa, biến chất cán bộ từ trung ương đến địa phương, từ dân chính đến công an, quân đội; đầy rẫy sai phạm kiểu lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ; sự đối kháng của người dân từ những chính sách về đất đai hoặc tình thế đất nước bị o ép, khó khăn nhiều mặt… Nhiều lúc ông quẳng tờ báo, lầu bầu: “báo với chí!” Chẳng biết ông thất vọng về cách báo đưa tin hay nội dung những bài báo.

     Những cán bộ dưới quyền cũ thỉnh thoảng đến chơi hỏi ý kiến ông chuyện này chuyện kia, người thực lòng ông chân tình góp ý, kẻ vụ lợi ông một mực từ chối với cái lý mình đã về hưu, không lạm bàn. Gặp bạn bè cũ thời trên núi, ba tôi phấn chấn hẳn lên, chuyện vãn gì rồi cũng hàn huyên về thời gian lao, sống chết có nhau, nhắc tới những người bạn đã hy sinh, những người cùng thời sau Bảy lăm ai thăng tiến, thành đạt, ai tù tội… Ông lắng nghe bạn nói lời thất vọng, chán nản về những biến chất con người, xã hội bây giờ, nhưng im lặng, không bình luận gì.

     Ba tôi thuộc tạng người khó thể phủ nhận, phỉ báng con đường mình từng đi.

     Khi anh Đức về thưa ba chuyện nghỉ việc cơ quan, tập trung cho cửa hàng xe đạp điện với vợ, ông hơi chau mày một chút rồi hỏi:
     -Sao nghỉ? Con học hành đàng hoàng, đang trong cơ cấu sao lại bỏ?
     -Con nghĩ kỹ rồi ba. Con không hợp với kiểu công chức uể oải, tẻ nhạt một cách khuôn mẫu bây giờ. Hết một đời dựa dật đồng lương, chứng kiến những chướng tai gai mắt ở cơ quan, cạnh tranh đấu đá, hoặc ngoan hiền ẩn nhẫn chờ thời hoặc cầu cạnh lấy lòng cấp trên để tiến thân cho đến khi nghỉ hưu như ba chắc con không chịu nổi!
     Ba tôi ngạc nhiên nghe anh Đức nói thẳng tuột ý nghĩ của mình. Im lặng một lát, ông nhẹ nhàng:
     -Tùy con.

     Cũng đã lâu rồi, ông không nói câu “gia đình mình truyền thống cách mạng” như niềm tự hào, như gợi ý, nhắc nhở vợ con. Gần nhất là hồi vợ chồng tôi mới về, trong mâm cơm tất niên, nhân việc anh Đức than chuyện cơ quan giờ ai cũng nhăm nhăm kiếm tiền, tranh thủ những toan tính có lợi cho mình, những cuộc họp đều nói với nhau điều giả trá, thấy chán, ba nói câu ấy để động viên anh Đức thôi chứ không có ý gì khác. Tôi thấy mặt Tâm thoảng rung động. Cô ăn vội chút gì đó trong chén rồi xin phép đứng dậy trước.

     Má tôi tuy có lúc tự ái, hờn lẩy Tâm nhưng rồi cái hồn nhiên quấn quýt của thằng Bi, thằng Bo cũng khiến bà nội vui và bận rộn chiều cháu. Ông nội còn cưng chiều hơn, lúc nào cũng sẵn mấy bì bánh ngon cho cháu. Chủ nhật thường tổ chức cả nhà đi ăn sáng, cà phê, hôm sắp xếp được, nhà anh hai cũng về. Bi, Bo có hai chị gái con anh Đức cũng thương, chiều em, sướng lắm.

     Tâm có lúc cùng đi, cũng cố hòa nhập với không khí gia đình nhưng có gì không thật thoải mái. Khác hẳn với những lần chúng tôi đưa con về ngoại chơi. Ông bà ngoại cũng thương chìu cháu lâu lâu về mà, nhưng thấy quá một chút là Tâm can thiệp ngay, nhẹ nhàng và tự tin, dứt khoát. Ông bà ngoại cũng cứ vui, không khí gia đình ấm áp tình cảm.

     Nhà ngoại gần đây đã có cái ti vi màn hình let, một số tiện ích khác thay thế những đồ cũ mấy chục năm. Hai anh trai của Tâm, người Gia Lai, người Bình Dương giờ làm ăn khá, mỗi lần về là sắm sửa cho cha mẹ. Mỗi lần xẹt qua năm, ba phút, Tâm cũng thường ép dúi vào tay mẹ mấy trăm.

     Tôi thích những đồ vật cũ: cái đồng hồ tường, cái giỏ bình trà ba Tâm đan bằng dây điện từ hồi ở lính, cái máy đĩa Akai, cái tivi đen trắng Sony 9 inch, cái máy ảnh Canon, mấy quẹt Zippo, cái kính pilot… Có thứ đang hoạt động, có thứ đã hỏng hoặc quá lâu không sử dụng nhưng được kê, đặt ngay ngắn trên kệ, tủ. Sạch sẽ, tinh tươm. Một không gian khác với nhà tôi, khác với nhiều nhà thịnh phát bây giờ: có hồn, xưa cũ và đầy tự trọng.

     Ba vợ tôi đã ngoài bảy mươi, vẫn ngồi sửa khóa trước chợ. Má vẫn nồi xôi bán trước nhà. Mỗi lần qua nhà, tôi thường nói chuyện sửa khóa với cha vợ, những khó khăn các loại khóa mới, những tình huống, tiếp xúc, vui buồn mấy chuyến đi xa. Ông lắng nghe, điềm đạm chia sẻ những kinh nghiệm.

     Tôi biết mình dễ dàng thân thiết với ngôi nhà này hơn Tâm với nhà tôi. Tôi càng thương quý cô. Thời yêu nhau ban đầu, chúng tôi thừa lãng mạn và hiếu thắng, tự tin sẽ vượt qua mọi khó khăn. Giờ đối diện những vướng mắc không dễ gỡ. Lại thêm hai thằng con xinh như mộng, …

     Nhưng tách ra ở riêng theo ý Tâm, ba má tôi sẽ hụt hẫng lớn. Má tôi nông dân, đơn giản hơn, còn niềm vui duy nhất của ba tôi bây giờ là hai đứa cháu nội, ba sẽ rất xốc.

4.

     Chuông điện thoại hãm âm nho nhỏ, từ giấc ngủ tôi vọng ra. Tâm trở mình. Đồng hồ tường đã gần hai giờ sáng. Tôi nhoài người bắt máy.
     -Sửa khóa Thiện Tâm phải không ạ?
     -Dạ, Thiện Tâm nghe.
     -Anh ơi, em ở 12xx… Trần Hưng Đạo, anh giúp mở dùm khóa nhà, em làm mất khóa…
     -Chị để sáng mai được không, mới hai giờ…
     -Không được anh ơi, anh chịu khó giúp dùm, bao nhiêu tiền cũng được… Chồng em đi công tác sắp về… Em cứ nghĩ chiều mai ảnh mới… Anh giúp dùm! Cầu xin anh đấy!…
     Một ca quen thuộc. Chồng bất ngờ về sớm hơn dự định. Những người đàn bà thị thành thời nay của những gia đình giàu có, thành đạt, khi chồng đại gia hoặc quan chức miệt mài tìm em út, bồ nhí trẻ trung bên ngoài, vợ cũng tranh thủ sống, chuyện “chả”- “nem” khá cân bằng nhau. Người ngoài nhìn vào luôn thấy một mô hình gia đình hạnh phúc, sang quý đáng mơ ước.

     Cha vợ dạy tôi bài học về đạo đức người thợ sửa khóa: lương tâm và sự trung thực. Giúp người là chính. Tôi lại sẽ giúp người phụ nữ khách hàng này an toàn về đức hạnh với chồng cô ta thôi. Giúp cô ta chuyện lừa dối chồng, tôi có vi phạm đạo đức nghề sửa khóa không? Tôi không biết. Thôi đó là chuyện người, hơi sức đâu “lo bò chết hổng hòm”.

     Còn chuyện mình?

     Tôi nhìn Tâm. Khi cô trở người nằm nghiêng tự nhiên, chân co chân dũi, cái áo ngủ đã xếch lên tùy tiện và hờ hững quá đùi- một sự hớ hênh của đoan chính đầy cuốn hút.

     Tôi chỉ là thợ sửa khóa giỏi. Tất tần tật các loại khóa, từ xưa cũ đến hiện đại trục trặc, khô dầu lờn bi, mắc kẹt kiểu gì tôi đều sửa được…

LỄ KẾT NẠP ĐẢNG VIÊN TẠI CHI BỘ NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ NẴNG

Ngày 04/10/2020, Nhà sáng tác Đà Nẵng đã tổ chức Lễ kết nạp Đảng viên đối với các quần chúng ưu tú Nguyễn Thị Kim Nga và Nguyễn Thị Thương. Cả hai đều là những viên chức của Nhà sáng tác Đà Nẵng.

Đến dự và chỉ đạo tại Lễ kết nạp có đồng chí Nguyễn Song Hiển - Bí thư Chi bộ, các đảng viên trong Chi bộ cùng toàn viên chức và người lao động của Nhà sáng tác Đà Nẵng.

Lễ kết nạp đảng viên đã được Chi bộ Nhà sáng tác Đà Nẵng tổ chức trang nghiêm, đúng trình tự và thủ tục theo quy định của Điều lệ Đảng.

Trải qua quá trình phấn đấu, rèn luyện của bản thân cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn của Chi bộ Nhà sáng tác Đà Nẵng, được sự đồng ý từ Đảng bộ Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, các quần chúng ưu tú Nguyễn Thị Kim Nga và Nguyễn Thị Thương đã vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng. 

ketnapdangt10 2020
Đồng chí Nguyễn Song Hiển trao quyết định kết nạp đảng viên
cho đồng chí Nguyễn Thị Kim Nga

Đứng trước cờ tổ quốc, cờ Đảng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Thị Kim Nga và đồng chí Nguyễn Thị Thương đã đọc lời tuyên thệ của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hứa sẽ tiếp tục phấn đấu để luôn xứng đáng là người đảng viên gương mẫu, đóng góp sức mình thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị của Chi bộ, góp phần xây dựng Chi bộ ngày càng vững mạnh.

ketnapdangt10 2020 1
Đồng chí Nguyễn Song Hiển trao quyết định kết nạp đảng viên
cho đồng chí Nguyễn Thị Thương

Tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Song Hiển - Bí thư chi bộ Nhà sáng tác Đà Nẵng đã trao quyết định kết nạp, căn dặn các đồng chí đảng viên mới tiếp tục phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện trong thời gian tới; đồng thời giao các đảng viên chính thức của Chi bộ tiếp tục theo dõi, bồi dưỡng, giúp đỡ các đảng viên dự bị hoàn thành nhiệm vụ, xứng đáng trở thành người đảng viên gương mẫu, đóng góp sức mình thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị của Chi bộ Nhà sáng tác Đà Nẵng, góp phần xây dựng Chi bộ Nhà sáng tác Đà Nẵng ngày càng vững mạnh.

Kế hoạch tổ chức các Trại sáng tác của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tại các Nhà sáng tác trong tháng 10/2020

Trong tháng 10/2020, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức các Trại sáng tác tại các Nhà sáng tác trực thuộc trung tâm.

DANH SÁCH CÁC TRẠI DIỄN RA TRONG THÁNG 10 NĂM 2020

STT Tên Hội VHNT Địa điểm Khai mạc Bế mạc
TRẠI THƯỜNG NIÊN
1 Hội Nghệ sỹ Múa Hà Nội Tam Đảo 17/10 23/10
2 Hội Kiến trúc sư Việt Nam Tam Đảo 25/10 31/10
3 Hội văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam Đại Lải 7/10 21/10
4 Hội Âm nhạc Hà Nội Đại Lải 23/10 06/11
5 Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình Đà Nẵng 5/10 19/10
6 Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ninh Nha Trang 1/10 15/10
7 Hội Nghệ sỹ Múa Việt Nam Nha Trang 20/10 27/10
8 Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế Nha Trang 5/10 19/10
9 Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam Vũng Tàu 6/10 20/10
10 Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam Vũng Tàu 21/10 4/11
11 Hội Nhà văn Việt Nam Đà Lạt 6/10 18/10
12 Hội Văn học nghệ thuật Bắc Ninh Đà Lạt 19/10 2/11
13 Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Đà Lạt 19/10 2/11

I. Nhà sáng tác Tam Đảo:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI NGHỆ SĨ MÚA HÀ NỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC TAM ĐẢO
(17-23/10/2020)
(Quyết định số:212 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 18 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Tạ Duy Hiện Nam Lý luận 1953 Kinh
2 Phạm Hùng Thoan Nam Lý luận 1943 Kinh
3 Trịnh Quốc Minh Nam Lý luận 1955 Kinh
4 Nguyễn Văn Bích Nam Biên đạo 1944 Kinh
5 Nguyễn Như Bình Nam Biên đạo 1939 Kinh
6 Nguyễn Thế Chiến Nam Biên đạo 1952 Kinh
7 Đinh mạnh Cường Nam Biên đạo 1947 Kinh
8 Lê Hồng Thắng Nữ Biên đạo 1944 Kinh
9 Trần Thanh Tú Nữ Biên đạo 1972 Kinh
10 Nguyễn Ngọc Anh Nam Sáng tác 1961 Kinh
11 Cao Ngọc Ánh Nữ Sáng tác 1972 Kinh
12 Phạm Thị Ngọc Bích Nữ Sáng tác 1961 Kinh
13 Nguyễn Cửu Dũng Nam Sáng tác 1977 Kinh
14 Phạm Đình Đạt Nam Sáng tác 1945 Kinh
15 Trần Ngọc Hiển Nam Sáng tác 1956 Kinh
16 Ngô Thị Minh Nghĩa Nữ Sáng tác 1954 Kinh
17 Trần Quốc Toản Nam Sáng tác 1951 Kinh
18 Trần Kim Khánh Nữ Sáng tác 1953 Kinh
19 Nguyễn Công Nhạc Nam Sáng tác 1946 Kinh
20 Nguyễn Thế Sơn Nam Sáng tác 1962 Kinh
21 Ứng Duy Thịnh Nam Sáng tác 1952 Kinh
22 Nguyễn Đắc Thọ Nam Sáng tác 1952 Kinh
23 Ngô Mạnh Anh Nam Huấn luyện 1945 Kinh
24 Vũ Thị Phương Anh Nữ Huấn luyện 1943 Kinh
25 Trần Quốc Cường Nam Huấn luyện 1948 Kinh
26 Nguyễn Thị Mai Hương Nữ Huấn luyện 1946 Kinh
27 Trịnh Út Nghiêm Nữ Huấn luyện 1957 Kinh
28 Phạm Minh Phương Nữ Huấn luyện 1950 Kinh
29 Kiều Thị Cậy Nữ Huấn luyện 1945 Kinh
30 Bùi Thiếu Hằng Nữ Huấn luyện 1944 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI KIẾN TRÚC SƯ VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC TAM ĐẢO
(25-31/10/2020)
(Quyết định số:253 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 12 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Phan Đăng Sơn Nam Kiến trúc 1961 Kinh
2 Nguyễn Quốc Thông Nam Kiến trúc 1951 Kinh
3 Hoàng Thúc Hào Nam Kiến trúc 1971 Kinh
4 Bùi Anh Thịnh Nam Kiến trúc 1978 Kinh
5 Đỗ Ngọc Huấn Nam Kiến trúc 1986 Kinh
6 Đào Trọng Thuần Nam Kiến trúc 1967 Kinh
7 Bùi Quang Hiếu Nam Kiến trúc 1977 Kinh
8 Nông Xuân Yêm Nam Kiến trúc 1960 Tày
9 Dương Mạc Kiên Nam Kiến trúc 1984 Tày
10 Nguyễn Đạm Nam Kiến trúc 1953 Kinh
11 Đinh Tuấn Trường Nam Kiến trúc 1967 Kinh
12 Vũ Văn An Nam Kiến trúc 1958 Kinh
13 Dương Chí Tài Nam Kiến trúc 1981 Kinh
14 Nguyễn Thị Bích Hạnh Nữ Kiến trúc 1990 Kinh
15 Nông Quang Huyên Nam Kiến trúc 1981 Nùng
16 Hà Việt Cường Nam Kiến trúc 1988 Tày
17 Đỗ Xuân Thủy Nam Kiến trúc 1974 Kinh
18 Trần Văn Ba Nam Kiến trúc 1986 Kinh
19 Nguyễn Văn Học Nam Kiến trúc 1987 Kinh
20 Nguyễn Lương Nam Nam Kiến trúc 1996 Kinh
21 Lã Toàn Thắng Nam Kiến trúc 1976 Kinh
22 Nguyễn Việt Dũng Nam Kiến trúc 1981 Kinh
23 Hà Quốc Dũng Nam Kiến trúc 1982 Kinh
24 Vương Hải Long Nam Kiến trúc 1968 Kinh
25 Nguyễn Quang Huyến Nam Kiến trúc 1958 Kinh
26 Nguyễn Văn Cường Nam Kiến trúc 1959 Kinh
27 Nguyễn Minh Tuấn Nam Kiến trúc 1977 Kinh
28 Nguyễn Hồng Vân Nữ Kiến trúc 1979 Kinh
29 Nghiêm Hồng Hạnh Nữ Kiến trúc 1973 Kinh
30 Nguyễn Thùy Dương Nữ Kiến trúc 1992 Kinh
31 Phạm Thu Hiền Nữ Kiến trúc 1990 Kinh
32 Phùng Tuấn Nam Kiến trúc 1980 Kinh

II. Nhà sáng tác Đại Lải:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VHNT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(07/10-21/10/2020)
(Quyết định số: 208 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 15 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Trần Giang Nam Nam Mỹ thuật 1978 Kinh
2 Trương Mạnh Sáng Nam Mỹ thuật 1981 Nùng
3 Nông Văn Kim Nam Văn học 1950 Tày
4 Đinh Hữu Hoan Nam Văn học 1952 Tày
5 Thạch Công Thịnh Nam Văn học 1952 Kinh
6 Bạch Ngọc Tư Nam Nhiếp ảnh 1960 Kinh
7 Trần Thị Nương Nữ Văn học 1953 Kinh
8 Lang Quốc Khánh Nam Văn học 1959 Thái
9 Sầm Văn Bình Nam VNDG 1955 Thái
10 Linh Quang Tín Nam Văn học 1950 Tày
11 Nguyễn Ngọc Kỳ Nam Văn học 1951 Kinh
12 Nguyễn Xuân Luật Nam Văn học 1950 Kinh
13 Trần Thị Liên Nữ VNDG 1956 Kinh
14 Cao Xuân Thái Nam Văn học 1950 Kinh
15 Doãn Quang Sửu Nam Văn học 1952 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI ÂM NHẠC HÀ NỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(ĐỢT 1: 23-29/10/2020)
(Quyết định số:255/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 13 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên         văn nghệ sỹ Giới tính Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Lân Cường Nam 1941 Kinh
2 Bùi Việt Hà Nữ 1992 Kinh
3 Lê Tiến Hoành Nam 1949 Kinh
4 Nguyễn Thái Hà Nam 1952 Kinh
5 Nguyễn Văn Bình Nam 1980 Kinh
6 Hồ Trọng Tuấn Nam 1970 Kinh
7 Phi Cẩm Thúy Nữ 1959 Kinh
8 Vũ Hùng Nam 1952 Kinh
9 Bùi Huy Thông Nam 1945 Kinh
10 Nguyễn Đức Giao Nam 1958 Kinh
11 Quách Thái Kỳ Nam 1940 Kinh
12 Lê Minh Tuân Nam 1952 Kinh
13 Trần Miêu Nam 1962 Kinh
14 Đặng Tài Tuệ Nam 1955 Kinh
15 Cát Văn Vận Nam 1940 Kinh

3. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI ÂM NHẠC HÀ NỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(ĐỢT 2: 30/10-06/11/2020)
(Quyết định số:255/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 13 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Bá Môn Nam 1952 Kinh
2 Ngô Minh Hoàn Nam 1982 Kinh
3 Vũ Kiến Thiết Nam 1956 Kinh
4 Cao Thanh Hải Nam 1975 Kinh
5 Nguyễn Kim Phụng Nam 1975 Kinh
6 Nguyễn Tiến Đoàn Nam 1957 Kinh
7 Nguyễn Mạnh Hợp Nam 1954 Kinh
8 Trần Thanh Tùng Nam 1955 Kinh
9 Đường Minh Giang Nam 1965 Kinh
10 Nguyễn Văn Giang Nam 1945 Kinh
11 Nguyễn Lân Hùng Nam 1945 Kinh
12 Nguyễn Đức Chính Nam 1957 Kinh
13 Nguyễn Xuân Vinh Nam 1956 Mường
14 Trương Ngọc Ninh Nam 1943 Kinh
15 Trần Thanh Hiền Nữ 1965 Kinh

III. Nhà sáng tác Nha Trang:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT QUẢNG NINH
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(01 - 15/10/2020)
(Quyết định số:211/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 17 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Phạm Văn Học Nam Văn học 1984 Kinh
2 Nguyễn Thị Minh Đức Nữ Văn học 1956 Kinh
3 Nguyễn Thu Mát Nữ Văn học 1959 Kinh
4 Lê Thúy Hà Nữ Văn học 1962 Kinh
5 Trần Đình Nhân Nam Văn học 1958 Kinh
6 Nguyễn Trần Trương Nam Văn học 1959 Kinh
7 Đinh Ngọc Hưng Nam Nhiếp ảnh 1971 Kinh
8 Bùi Bích Phương Nữ Nhiếp ảnh 1971 Kinh
9 Hà Thị Ngọc Nữ Âm nhạc 1965 Tày
10 Đặng Xuyên Nam Âm nhạc 1958 Kinh
11 Nguyễn Tuấn Đạt Nam Âm nhạc 1980 Kinh
12 Bùi Vân Anh Nam Âm nhạc 1972 Kinh
13 Bùi Tân Việt Nữ Mỹ thuật 1981 Kinh
14 Nguyễn Tâm Nhâm Nam Mỹ Thuật 1956 Kinh
15 Đỗ Văn Hậu Nam Sân khấu 1960 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN LIÊN HIỆP HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(05/10/2020 - 19/10/2020)
(Quyết định số:226/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 29 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Đặng Toản Nam Mỹ thuật 1952 Kinh
2 Nguyễn Duy Linh Nam Mỹ thuật 1955 Kinh
3 Đặng Mậu Triết Nam Mỹ thuật 1960 Kinh
4 Ngô Sinh Nam Sân khấu 1978 Kinh
5 Phan Anh Tiến Nam Âm nhạc 1987 Kinh
6 Dương Bích Hà Nữ Âm nhạc 1964 Kinh
7 Bùi Duy Dũng Nam Âm nhạc 1981 Kinh
8 Nguyễn Việt Nam Văn học 1954 Kinh
9 Phạm Xuân Phụng Nam Văn học 1951 Kinh
10 Triệu Nguyên Phong Nam Văn học 1957 Kinh
11 Nguyễn Thế Nam VHDG 1957 Kinh
12 Nguyễn Hữu Đính Nam Nhiếp ảnh 1958 Kinh
13 Nguyễn Trung Thành Nam Nhiếp ảnh 1955 Kinh
14 Đặng Việt Hùng Nam Nhiếp ảnh 1988 Kinh
15 Mai Trung Nam Múa 1984 Kinh

3. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI NGHỆ SĨ MÚA VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(20/10/2020 - 27/10/2020)
(Quyết định số:209 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 15 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Tạ Xuân Chiến Nam Biên đạo 1985 Kinh
2 Tống Mai Len Nữ Biên đạo 1988 Kinh
3 Vũ Tùng Dương Nam Biên đạo 1987 Kinh
4 Nguyễn Thúy Hằng Nữ Biên đạo 1982 Kinh
5 Nguyễn Hồng Phong Nam Biên đạo 1974 Kinh
6 Nguyễn Lan Hương Nữ Biên đạo 1972 Kinh
7 Lý Thị Thu Hà Nữ Biên đạo 1979 Kinh
8 Hoàng Thị Loan Nữ Biên đạo 1972 Kinh
9 Phạm Thanh Tùng Nam Biên đạo 1979 Kinh
10 Cao Duy Tùng Nam Biên đạo 1986 Kinh
11 Nguyễn Chiến Thắng Nam Biên đạo 1975 Kinh
12 Huỳnh Trúc Giang Nam Biên đạo 1979 Kinh
13 Huỳnh Quang Trí Nam Biên đạo 1981 Kinh
14 Lâm Thanh Thảo Nữ Biên đạo 1984 Kinh
15 Lê Thị Thu Hoài Nữ Biên đạo 1983 Kinh
16 Phạm Hoài Nam Nam Biên đạo 1975 Kinh
17 Nguyễn Việt Bắc Nữ Biên đạo 1980 Kinh
18 Tải Đình Hà Nam Biên đạo 1985 Nùng
19 Lê Đức Huy Nam Biên đạo 1979 Kinh
20 Nguyễn Văn Dũng Nam Biên đạo 1978 Kinh
21 Đinh Xuân Thương Nam Biên đạo 1979 Mường
22 Nguyễn Công Trí Nam Biên đạo 1983 Kinh
23 Pờ Nhù Nu Nữ Biên đạo 1986 Hà Nhì
24 Nguyễn Thị Hảo Nữ Biên đạo 1978 Tày
25 Chu Mai Vinh Nam Biên đạo 1972 Nùng
26 Nguyễn Xuân Hạnh Nam Biên đạo 1981 Kinh
27 Phan Xuân Thành Nam Biên đạo 1973 Kinh
28 Hoàng Vĩnh Thắng Nam Biên đạo 1969 Kinh
29 Nguyễn Trung Hưng Nam Biên đạo 1976 Kinh
30 Lò Văn Thọ Nam Biên đạo 1977 Thái

IV. Nhà sáng tác Đà Lạt:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(06-18/10/2020)
(Quyết định số:207/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 09 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Địa phương Năm sinh Dân tộc
1 Tôn Thị Phương Lan Nữ Hà Nội 1958 Kinh
2 Phạm Đình Ân Nam Hà Nội 1946 Kinh
3 Nguyễn Chu Nhạc Nam Hà Nội 1957 Kinh
4 Hồ Khải Hoàn Nam Hà Nội 1962 Kinh
5 Phạm Thị Xuân Ban (Y Ban) Nữ Hà Nội 1961 Kinh
6 Nguyễn Hiếu Nam Hà Nội 1949 Kinh
7 Trần Thị Trường Nữ Hà Nội 1950 Kinh
8 Nguyễn Linh Khiếu Nam Hà Nội 1959 Kinh
9 Tô Hoàng Nam TPHCM 1941 Kinh
10 Phạm Thanh Khương Nam Hà Nội 1959 Kinh
11 Phạm Hồ Thu Nữ Hà Nội 1950 Kinh
12 Phạm Xuân Trường Nam Hải Phòng 1947 Kinh
13 Phan Thị Thanh Nhàn Nữ Hà Nội 1943 Kinh
14 Huỳnh Thị Thu Trang Nữ Tiền Giang 1959 Kinh
15 Trần Thái Hồng Nữ Vĩnh Long 1960 Kinh
16 Lê Thị Tố Lan Nữ Vĩnh Long 1951 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT BẮC NINH
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(19/10/2020 - 02/11/2020)
(Quyết định số:147/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 02 tháng 6 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Đỗ Văn Phong Nam VHDG 1977 Kinh
2 Nguyễn Thị Tố Quyên Nữ Văn học 1968 Kinh
3 Trần Ngọc Sơn Nam Âm nhạc 1963 Kinh
4 Nguyễn Duy Khánh Nam Âm nhạc 1981 Kinh
5 Cao Văn Hà Nam Kiến trúc 1958 Kinh
6 Nguyễn Đình Lâm Nam Kiến trúc 1944 Kinh
7 Nguyễn Minh Châu Nam Mỹ thuật 1953 Kinh
8 Nguyễn Minh Tuấn Nam Mỹ thuật 1953 Kinh
9 Nguyễn Hoàng Anh Nam Nhiếp ảnh 1974 Kinh
10 Phùng Đức Hiệp Nam Nhiếp ảnh 1949 Kinh
11 Phan Thanh Vân Nam Sân khấu 1961 Kinh
12 Nguyễn Thị Đương Nữ Văn học 1983 Kinh
13 Nguyễn Thành Hương Nam Văn học 1955 Kinh
14 Nguyễn Viết Tại Nam Văn học 1949 Kinh
15 Vũ Thế Thược Nam Văn học 1954 Kinh

3. DANH SÁCH HỘI VIÊN NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(09/10/2020 - 02/11/2020)
(Quyết định số:191/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 29 tháng 7 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Địa chỉ Năm sinh Dân tộc
1

Nguyễn Văn Hùng

(Xuân Hùng)

Nam Hà Nội

1981

Kinh
2 Nguyễn Thanh Hương Nam Lâm Đồng 1956 Kinh
3 Đặng Duy Lưu Nam Lâm Đồng 1963 Kinh
4 Nguyễn Thanh Hoàng Nam Bình Phước 1963 Kinh
5 Vương Thị Thu Thuỷ Nữ Bình Phước 1963 Kinh
6 Hà Đình Cẩn Nam TP.HCM 1950 Kinh
7

Châu La Việt

(Lê Khánh Hoài)

Nam TP.HCM 1954 Kinh
8 Nguyễn Ngọc Mộc Nam TP.HCM 1954 Kinh
9

Trần Đăng Xuyền

(Trần Đăng Suyền)

Nam Hà Nội 1954 Kinh
10 Bùi Việt Thắng Nam Hà Nội 1956 Kinh
11 Nguyễn Duy Hiến Nam Bình Phước 1959 Kinh
12

Phùng Phương Quý

(Phùng Đức Hùng)

Nam Tây Ninh 1964 Kinh
13 Hoàng Quý Nam Vũng Tàu 1950 Kinh
14 Phạm Vân Anh Nữ Hà Nội 1976 Kinh
15 Uông Thái Biểu Nữ Báo Nhân dân 1988 Kinh

V. Nhà sáng tác Vũng Tàu:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN BẢO TÀNG LSQS VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(06 - 20/10/2020)
(Quyết định số:201 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 27 tháng 8 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Địa phương Năm sinh Dân tộc
1 Ngô Đức Chung Nam Bình Dương 1972 Kinh
2 Đinh Công Khải Nam TP Hồ Chí Minh 1954 Kinh
3 Lê Quang Luân Nam TP Hồ Chí Minh 1944 Kinh
4 Hồ Minh Quân Nam TP Hồ Chí Minh 1961 Kinh
5 Dương Văn Sen Nam TP Hồ Chí Minh 1949 Kinh
6 Lê Minh (Lâm Ngọc Thọ) Nam Bà Rịa - Vũng Tàu 1940 Kinh
7 Lưu Thành Quả Nam Khánh Hòa 1977 Kinh
8 Nguyễn Thị Hải Nhung Nữ Nghệ An 1982 Kinh
9 Ngân Chài Nam Hà Nội 1955 Kinh
10 Lê Thị Dung Nữ Hà Nội 1964 Kinh
11 Bùi Anh Hùng Nam Hà Nội 1965 Kinh
12 Trần Tuấn Nam Bình Định 1975 Kinh
13 Lê Minh Duy Nam Tiền Giang 1976 Kinh
14 Nguyễn Hải Nghiêm Nam Hà Nội 1952 Kinh
15 Nguyễn Văn Hoàn Nam Đăknông 1976 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(21/10 - 04/11/2020)
(Quyết định số:198/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 26 tháng 8 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chi hội VNDG Năm sinh Dân tộc
1 Vàng Thung Chúng Nam Lào Cai 1959 Nùng
2 Nguyễn Thị Thanh Vĩnh Nữ Vĩnh Phúc 1969 Kinh
3 Lê Thị Phượng Nữ Viện Nghiên cứu Văn hóa 1985 Kinh
4 Phạm Văn Luân Nam Bến Tre 1967 Kinh
5 Vũ Thảo Ngọc Nữ Quảng Ninh 1965 Kinh
6 Phạm Thị Toán Nữ Đồng Tháp 1957 Kinh
7 Nguyễn Văn Quang Nam Kon Tum 1979 Kinh
8 Nguyễn Thanh Thuận Nam Đồng Tháp 1989 Kinh
9 Trần Thị Ngọc Ly Nữ Đồng Tháp 1987 Kinh
10 A Tuấn Nam Viện Nghiên cứu Văn hóa 1982 Xơ Đăng
11 Đỗ Thị Cúc Nữ Vĩnh Phúc 1959 Kinh
12 Bàn Quỳnh Giao Nữ Viện Văn học 1977 Dao
13 Lý Viết Trường Nam Đại học KHXH&NV HN 1994 Nùng
14 Phan Thư Hiền Nữ Hà Tĩnh 1959 Kinh
15 Phan Đình Dũng Nam Đồng Nai 1969 Kinh

Kế hoạch tổ chức các Trại sáng tác của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tại các Nhà sáng tác trong tháng 10/2020

Trong tháng 10/2020, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức các Trại sáng tác tại các Nhà sáng tác trực thuộc trung tâm.

DANH SÁCH CÁC TRẠI DIỄN RA TRONG THÁNG 10 NĂM 2020

STT Tên Hội VHNT Địa điểm Khai mạc Bế mạc
TRẠI THƯỜNG NIÊN
1 Hội Nghệ sỹ Múa Hà Nội Tam Đảo 17/10 23/10
2 Hội Kiến trúc sư Việt Nam Tam Đảo 25/10 31/10
3 Hội văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam Đại Lải 7/10 21/10
4 Hội Âm nhạc Hà Nội Đại Lải 23/10 06/11
5 Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình Đà Nẵng 5/10 19/10
6 Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ninh Nha Trang 1/10 15/10
7 Hội Nghệ sỹ Múa Việt Nam Nha Trang 20/10 27/10
8 Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế Nha Trang 5/10 19/10
9 Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam Vũng Tàu 6/10 20/10
10 Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam Vũng Tàu 21/10 4/11
11 Hội Nhà văn Việt Nam Đà Lạt 6/10 18/10
12 Hội Văn học nghệ thuật Bắc Ninh Đà Lạt 19/10 2/11
13 Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Đà Lạt 19/10 2/11

I. Nhà sáng tác Tam Đảo:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI NGHỆ SĨ MÚA HÀ NỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC TAM ĐẢO
(17-23/10/2020)
(Quyết định số:212 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 18 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Tạ Duy Hiện Nam Lý luận 1953 Kinh
2 Phạm Hùng Thoan Nam Lý luận 1943 Kinh
3 Trịnh Quốc Minh Nam Lý luận 1955 Kinh
4 Nguyễn Văn Bích Nam Biên đạo 1944 Kinh
5 Nguyễn Như Bình Nam Biên đạo 1939 Kinh
6 Nguyễn Thế Chiến Nam Biên đạo 1952 Kinh
7 Đinh mạnh Cường Nam Biên đạo 1947 Kinh
8 Lê Hồng Thắng Nữ Biên đạo 1944 Kinh
9 Trần Thanh Tú Nữ Biên đạo 1972 Kinh
10 Nguyễn Ngọc Anh Nam Sáng tác 1961 Kinh
11 Cao Ngọc Ánh Nữ Sáng tác 1972 Kinh
12 Phạm Thị Ngọc Bích Nữ Sáng tác 1961 Kinh
13 Nguyễn Cửu Dũng Nam Sáng tác 1977 Kinh
14 Phạm Đình Đạt Nam Sáng tác 1945 Kinh
15 Trần Ngọc Hiển Nam Sáng tác 1956 Kinh
16 Ngô Thị Minh Nghĩa Nữ Sáng tác 1954 Kinh
17 Trần Quốc Toản Nam Sáng tác 1951 Kinh
18 Trần Kim Khánh Nữ Sáng tác 1953 Kinh
19 Nguyễn Công Nhạc Nam Sáng tác 1946 Kinh
20 Nguyễn Thế Sơn Nam Sáng tác 1962 Kinh
21 Ứng Duy Thịnh Nam Sáng tác 1952 Kinh
22 Nguyễn Đắc Thọ Nam Sáng tác 1952 Kinh
23 Ngô Mạnh Anh Nam Huấn luyện 1945 Kinh
24 Vũ Thị Phương Anh Nữ Huấn luyện 1943 Kinh
25 Trần Quốc Cường Nam Huấn luyện 1948 Kinh
26 Nguyễn Thị Mai Hương Nữ Huấn luyện 1946 Kinh
27 Trịnh Út Nghiêm Nữ Huấn luyện 1957 Kinh
28 Phạm Minh Phương Nữ Huấn luyện 1950 Kinh
29 Kiều Thị Cậy Nữ Huấn luyện 1945 Kinh
30 Bùi Thiếu Hằng Nữ Huấn luyện 1944 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI KIẾN TRÚC SƯ VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC TAM ĐẢO
(25-31/10/2020)
(Quyết định số:253 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 12 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Phan Đăng Sơn Nam Kiến trúc 1961 Kinh
2 Nguyễn Quốc Thông Nam Kiến trúc 1951 Kinh
3 Hoàng Thúc Hào Nam Kiến trúc 1971 Kinh
4 Bùi Anh Thịnh Nam Kiến trúc 1978 Kinh
5 Đỗ Ngọc Huấn Nam Kiến trúc 1986 Kinh
6 Đào Trọng Thuần Nam Kiến trúc 1967 Kinh
7 Bùi Quang Hiếu Nam Kiến trúc 1977 Kinh
8 Nông Xuân Yêm Nam Kiến trúc 1960 Tày
9 Dương Mạc Kiên Nam Kiến trúc 1984 Tày
10 Nguyễn Đạm Nam Kiến trúc 1953 Kinh
11 Đinh Tuấn Trường Nam Kiến trúc 1967 Kinh
12 Vũ Văn An Nam Kiến trúc 1958 Kinh
13 Dương Chí Tài Nam Kiến trúc 1981 Kinh
14 Nguyễn Thị Bích Hạnh Nữ Kiến trúc 1990 Kinh
15 Nông Quang Huyên Nam Kiến trúc 1981 Nùng
16 Hà Việt Cường Nam Kiến trúc 1988 Tày
17 Đỗ Xuân Thủy Nam Kiến trúc 1974 Kinh
18 Trần Văn Ba Nam Kiến trúc 1986 Kinh
19 Nguyễn Văn Học Nam Kiến trúc 1987 Kinh
20 Nguyễn Lương Nam Nam Kiến trúc 1996 Kinh
21 Lã Toàn Thắng Nam Kiến trúc 1976 Kinh
22 Nguyễn Việt Dũng Nam Kiến trúc 1981 Kinh
23 Hà Quốc Dũng Nam Kiến trúc 1982 Kinh
24 Vương Hải Long Nam Kiến trúc 1968 Kinh
25 Nguyễn Quang Huyến Nam Kiến trúc 1958 Kinh
26 Nguyễn Văn Cường Nam Kiến trúc 1959 Kinh
27 Nguyễn Minh Tuấn Nam Kiến trúc 1977 Kinh
28 Nguyễn Hồng Vân Nữ Kiến trúc 1979 Kinh
29 Nghiêm Hồng Hạnh Nữ Kiến trúc 1973 Kinh
30 Nguyễn Thùy Dương Nữ Kiến trúc 1992 Kinh
31 Phạm Thu Hiền Nữ Kiến trúc 1990 Kinh
32 Phùng Tuấn Nam Kiến trúc 1980 Kinh

II. Nhà sáng tác Đại Lải:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VHNT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(07/10-21/10/2020)
(Quyết định số: 208 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 15 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Trần Giang Nam Nam Mỹ thuật 1978 Kinh
2 Trương Mạnh Sáng Nam Mỹ thuật 1981 Nùng
3 Nông Văn Kim Nam Văn học 1950 Tày
4 Đinh Hữu Hoan Nam Văn học 1952 Tày
5 Thạch Công Thịnh Nam Văn học 1952 Kinh
6 Bạch Ngọc Tư Nam Nhiếp ảnh 1960 Kinh
7 Trần Thị Nương Nữ Văn học 1953 Kinh
8 Lang Quốc Khánh Nam Văn học 1959 Thái
9 Sầm Văn Bình Nam VNDG 1955 Thái
10 Linh Quang Tín Nam Văn học 1950 Tày
11 Nguyễn Ngọc Kỳ Nam Văn học 1951 Kinh
12 Nguyễn Xuân Luật Nam Văn học 1950 Kinh
13 Trần Thị Liên Nữ VNDG 1956 Kinh
14 Cao Xuân Thái Nam Văn học 1950 Kinh
15 Doãn Quang Sửu Nam Văn học 1952 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI ÂM NHẠC HÀ NỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(ĐỢT 1: 23-29/10/2020)
(Quyết định số:255/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 13 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên         văn nghệ sỹ Giới tính Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Lân Cường Nam 1941 Kinh
2 Bùi Việt Hà Nữ 1992 Kinh
3 Lê Tiến Hoành Nam 1949 Kinh
4 Nguyễn Thái Hà Nam 1952 Kinh
5 Nguyễn Văn Bình Nam 1980 Kinh
6 Hồ Trọng Tuấn Nam 1970 Kinh
7 Phi Cẩm Thúy Nữ 1959 Kinh
8 Vũ Hùng Nam 1952 Kinh
9 Bùi Huy Thông Nam 1945 Kinh
10 Nguyễn Đức Giao Nam 1958 Kinh
11 Quách Thái Kỳ Nam 1940 Kinh
12 Lê Minh Tuân Nam 1952 Kinh
13 Trần Miêu Nam 1962 Kinh
14 Đặng Tài Tuệ Nam 1955 Kinh
15 Cát Văn Vận Nam 1940 Kinh

3. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI ÂM NHẠC HÀ NỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐẠI LẢI
(ĐỢT 2: 30/10-06/11/2020)
(Quyết định số:255/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 13 tháng 10 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Năm sinh Dân tộc
1 Nguyễn Bá Môn Nam 1952 Kinh
2 Ngô Minh Hoàn Nam 1982 Kinh
3 Vũ Kiến Thiết Nam 1956 Kinh
4 Cao Thanh Hải Nam 1975 Kinh
5 Nguyễn Kim Phụng Nam 1975 Kinh
6 Nguyễn Tiến Đoàn Nam 1957 Kinh
7 Nguyễn Mạnh Hợp Nam 1954 Kinh
8 Trần Thanh Tùng Nam 1955 Kinh
9 Đường Minh Giang Nam 1965 Kinh
10 Nguyễn Văn Giang Nam 1945 Kinh
11 Nguyễn Lân Hùng Nam 1945 Kinh
12 Nguyễn Đức Chính Nam 1957 Kinh
13 Nguyễn Xuân Vinh Nam 1956 Mường
14 Trương Ngọc Ninh Nam 1943 Kinh
15 Trần Thanh Hiền Nữ 1965 Kinh

III. Nhà sáng tác Nha Trang:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT QUẢNG NINH
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(01 - 15/10/2020)
(Quyết định số:211/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 17 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Phạm Văn Học Nam Văn học 1984 Kinh
2 Nguyễn Thị Minh Đức Nữ Văn học 1956 Kinh
3 Nguyễn Thu Mát Nữ Văn học 1959 Kinh
4 Lê Thúy Hà Nữ Văn học 1962 Kinh
5 Trần Đình Nhân Nam Văn học 1958 Kinh
6 Nguyễn Trần Trương Nam Văn học 1959 Kinh
7 Đinh Ngọc Hưng Nam Nhiếp ảnh 1971 Kinh
8 Bùi Bích Phương Nữ Nhiếp ảnh 1971 Kinh
9 Hà Thị Ngọc Nữ Âm nhạc 1965 Tày
10 Đặng Xuyên Nam Âm nhạc 1958 Kinh
11 Nguyễn Tuấn Đạt Nam Âm nhạc 1980 Kinh
12 Bùi Vân Anh Nam Âm nhạc 1972 Kinh
13 Bùi Tân Việt Nữ Mỹ thuật 1981 Kinh
14 Nguyễn Tâm Nhâm Nam Mỹ Thuật 1956 Kinh
15 Đỗ Văn Hậu Nam Sân khấu 1960 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN LIÊN HIỆP HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(05/10/2020 - 19/10/2020)
(Quyết định số:226/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 29 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Đặng Toản Nam Mỹ thuật 1952 Kinh
2 Nguyễn Duy Linh Nam Mỹ thuật 1955 Kinh
3 Đặng Mậu Triết Nam Mỹ thuật 1960 Kinh
4 Ngô Sinh Nam Sân khấu 1978 Kinh
5 Phan Anh Tiến Nam Âm nhạc 1987 Kinh
6 Dương Bích Hà Nữ Âm nhạc 1964 Kinh
7 Bùi Duy Dũng Nam Âm nhạc 1981 Kinh
8 Nguyễn Việt Nam Văn học 1954 Kinh
9 Phạm Xuân Phụng Nam Văn học 1951 Kinh
10 Triệu Nguyên Phong Nam Văn học 1957 Kinh
11 Nguyễn Thế Nam VHDG 1957 Kinh
12 Nguyễn Hữu Đính Nam Nhiếp ảnh 1958 Kinh
13 Nguyễn Trung Thành Nam Nhiếp ảnh 1955 Kinh
14 Đặng Việt Hùng Nam Nhiếp ảnh 1988 Kinh
15 Mai Trung Nam Múa 1984 Kinh

3. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI NGHỆ SĨ MÚA VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC NHA TRANG
(20/10/2020 - 27/10/2020)
(Quyết định số:209 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 15 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Tạ Xuân Chiến Nam Biên đạo 1985 Kinh
2 Tống Mai Len Nữ Biên đạo 1988 Kinh
3 Vũ Tùng Dương Nam Biên đạo 1987 Kinh
4 Nguyễn Thúy Hằng Nữ Biên đạo 1982 Kinh
5 Nguyễn Hồng Phong Nam Biên đạo 1974 Kinh
6 Nguyễn Lan Hương Nữ Biên đạo 1972 Kinh
7 Lý Thị Thu Hà Nữ Biên đạo 1979 Kinh
8 Hoàng Thị Loan Nữ Biên đạo 1972 Kinh
9 Phạm Thanh Tùng Nam Biên đạo 1979 Kinh
10 Cao Duy Tùng Nam Biên đạo 1986 Kinh
11 Nguyễn Chiến Thắng Nam Biên đạo 1975 Kinh
12 Huỳnh Trúc Giang Nam Biên đạo 1979 Kinh
13 Huỳnh Quang Trí Nam Biên đạo 1981 Kinh
14 Lâm Thanh Thảo Nữ Biên đạo 1984 Kinh
15 Lê Thị Thu Hoài Nữ Biên đạo 1983 Kinh
16 Phạm Hoài Nam Nam Biên đạo 1975 Kinh
17 Nguyễn Việt Bắc Nữ Biên đạo 1980 Kinh
18 Tải Đình Hà Nam Biên đạo 1985 Nùng
19 Lê Đức Huy Nam Biên đạo 1979 Kinh
20 Nguyễn Văn Dũng Nam Biên đạo 1978 Kinh
21 Đinh Xuân Thương Nam Biên đạo 1979 Mường
22 Nguyễn Công Trí Nam Biên đạo 1983 Kinh
23 Pờ Nhù Nu Nữ Biên đạo 1986 Hà Nhì
24 Nguyễn Thị Hảo Nữ Biên đạo 1978 Tày
25 Chu Mai Vinh Nam Biên đạo 1972 Nùng
26 Nguyễn Xuân Hạnh Nam Biên đạo 1981 Kinh
27 Phan Xuân Thành Nam Biên đạo 1973 Kinh
28 Hoàng Vĩnh Thắng Nam Biên đạo 1969 Kinh
29 Nguyễn Trung Hưng Nam Biên đạo 1976 Kinh
30 Lò Văn Thọ Nam Biên đạo 1977 Thái

IV. Nhà sáng tác Đà Lạt:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(06-18/10/2020)
(Quyết định số:207/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 09 tháng 9 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Địa phương Năm sinh Dân tộc
1 Tôn Thị Phương Lan Nữ Hà Nội 1958 Kinh
2 Phạm Đình Ân Nam Hà Nội 1946 Kinh
3 Nguyễn Chu Nhạc Nam Hà Nội 1957 Kinh
4 Hồ Khải Hoàn Nam Hà Nội 1962 Kinh
5 Phạm Thị Xuân Ban (Y Ban) Nữ Hà Nội 1961 Kinh
6 Nguyễn Hiếu Nam Hà Nội 1949 Kinh
7 Trần Thị Trường Nữ Hà Nội 1950 Kinh
8 Nguyễn Linh Khiếu Nam Hà Nội 1959 Kinh
9 Tô Hoàng Nam TPHCM 1941 Kinh
10 Phạm Thanh Khương Nam Hà Nội 1959 Kinh
11 Phạm Hồ Thu Nữ Hà Nội 1950 Kinh
12 Phạm Xuân Trường Nam Hải Phòng 1947 Kinh
13 Phan Thị Thanh Nhàn Nữ Hà Nội 1943 Kinh
14 Huỳnh Thị Thu Trang Nữ Tiền Giang 1959 Kinh
15 Trần Thái Hồng Nữ Vĩnh Long 1960 Kinh
16 Lê Thị Tố Lan Nữ Vĩnh Long 1951 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT BẮC NINH
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(19/10/2020 - 02/11/2020)
(Quyết định số:147/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 02 tháng 6 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chuyên ngành Năm sinh Dân tộc
1 Đỗ Văn Phong Nam VHDG 1977 Kinh
2 Nguyễn Thị Tố Quyên Nữ Văn học 1968 Kinh
3 Trần Ngọc Sơn Nam Âm nhạc 1963 Kinh
4 Nguyễn Duy Khánh Nam Âm nhạc 1981 Kinh
5 Cao Văn Hà Nam Kiến trúc 1958 Kinh
6 Nguyễn Đình Lâm Nam Kiến trúc 1944 Kinh
7 Nguyễn Minh Châu Nam Mỹ thuật 1953 Kinh
8 Nguyễn Minh Tuấn Nam Mỹ thuật 1953 Kinh
9 Nguyễn Hoàng Anh Nam Nhiếp ảnh 1974 Kinh
10 Phùng Đức Hiệp Nam Nhiếp ảnh 1949 Kinh
11 Phan Thanh Vân Nam Sân khấu 1961 Kinh
12 Nguyễn Thị Đương Nữ Văn học 1983 Kinh
13 Nguyễn Thành Hương Nam Văn học 1955 Kinh
14 Nguyễn Viết Tại Nam Văn học 1949 Kinh
15 Vũ Thế Thược Nam Văn học 1954 Kinh

3. DANH SÁCH HỘI VIÊN NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC ĐÀ LẠT
(09/10/2020 - 02/11/2020)
(Quyết định số:191/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 29 tháng 7 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Địa chỉ Năm sinh Dân tộc
1

Nguyễn Văn Hùng

(Xuân Hùng)

Nam Hà Nội

1981

Kinh
2 Nguyễn Thanh Hương Nam Lâm Đồng 1956 Kinh
3 Đặng Duy Lưu Nam Lâm Đồng 1963 Kinh
4 Nguyễn Thanh Hoàng Nam Bình Phước 1963 Kinh
5 Vương Thị Thu Thuỷ Nữ Bình Phước 1963 Kinh
6 Hà Đình Cẩn Nam TP.HCM 1950 Kinh
7

Châu La Việt

(Lê Khánh Hoài)

Nam TP.HCM 1954 Kinh
8 Nguyễn Ngọc Mộc Nam TP.HCM 1954 Kinh
9

Trần Đăng Xuyền

(Trần Đăng Suyền)

Nam Hà Nội 1954 Kinh
10 Bùi Việt Thắng Nam Hà Nội 1956 Kinh
11 Nguyễn Duy Hiến Nam Bình Phước 1959 Kinh
12

Phùng Phương Quý

(Phùng Đức Hùng)

Nam Tây Ninh 1964 Kinh
13 Hoàng Quý Nam Vũng Tàu 1950 Kinh
14 Phạm Vân Anh Nữ Hà Nội 1976 Kinh
15 Uông Thái Biểu Nữ Báo Nhân dân 1988 Kinh

V. Nhà sáng tác Vũng Tàu:

1. DANH SÁCH HỘI VIÊN BẢO TÀNG LSQS VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(06 - 20/10/2020)
(Quyết định số:201 /QĐ - TTHTSTVHNT ngày 27 tháng 8 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Địa phương Năm sinh Dân tộc
1 Ngô Đức Chung Nam Bình Dương 1972 Kinh
2 Đinh Công Khải Nam TP Hồ Chí Minh 1954 Kinh
3 Lê Quang Luân Nam TP Hồ Chí Minh 1944 Kinh
4 Hồ Minh Quân Nam TP Hồ Chí Minh 1961 Kinh
5 Dương Văn Sen Nam TP Hồ Chí Minh 1949 Kinh
6 Lê Minh (Lâm Ngọc Thọ) Nam Bà Rịa - Vũng Tàu 1940 Kinh
7 Lưu Thành Quả Nam Khánh Hòa 1977 Kinh
8 Nguyễn Thị Hải Nhung Nữ Nghệ An 1982 Kinh
9 Ngân Chài Nam Hà Nội 1955 Kinh
10 Lê Thị Dung Nữ Hà Nội 1964 Kinh
11 Bùi Anh Hùng Nam Hà Nội 1965 Kinh
12 Trần Tuấn Nam Bình Định 1975 Kinh
13 Lê Minh Duy Nam Tiền Giang 1976 Kinh
14 Nguyễn Hải Nghiêm Nam Hà Nội 1952 Kinh
15 Nguyễn Văn Hoàn Nam Đăknông 1976 Kinh

2. DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM
DỰ TRẠI SÁNG TÁC TẠI NHÀ SÁNG TÁC VŨNG TÀU
(21/10 - 04/11/2020)
(Quyết định số:198/QĐ - TTHTSTVHNT ngày 26 tháng 8 năm 2020)
 
STT Họ và tên văn nghệ sỹ Giới tính Chi hội VNDG Năm sinh Dân tộc
1 Vàng Thung Chúng Nam Lào Cai 1959 Nùng
2 Nguyễn Thị Thanh Vĩnh Nữ Vĩnh Phúc 1969 Kinh
3 Lê Thị Phượng Nữ Viện Nghiên cứu Văn hóa 1985 Kinh
4 Phạm Văn Luân Nam Bến Tre 1967 Kinh
5 Vũ Thảo Ngọc Nữ Quảng Ninh 1965 Kinh
6 Phạm Thị Toán Nữ Đồng Tháp 1957 Kinh
7 Nguyễn Văn Quang Nam Kon Tum 1979 Kinh
8 Nguyễn Thanh Thuận Nam Đồng Tháp 1989 Kinh
9 Trần Thị Ngọc Ly Nữ Đồng Tháp 1987 Kinh
10 A Tuấn Nam Viện Nghiên cứu Văn hóa 1982 Xơ Đăng
11 Đỗ Thị Cúc Nữ Vĩnh Phúc 1959 Kinh
12 Bàn Quỳnh Giao Nữ Viện Văn học 1977 Dao
13 Lý Viết Trường Nam Đại học KHXH&NV HN 1994 Nùng
14 Phan Thư Hiền Nữ Hà Tĩnh 1959 Kinh
15 Phan Đình Dũng Nam Đồng Nai 1969 Kinh
Subscribe to this RSS feed

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - TRUNG TÂM HỖ TRỢ SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUÂT
Địa chỉ : 1A Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại : 04 39.745.763
Bản quyền thuộc về Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác VHNT. Yêu cầu trích nguồn khi đăng tải nội dung từ trang web này