NHỚ CÔN ĐẢO - Thơ Hoàng Chiến - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ
Thơ Hoàng Chiến - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ - sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 11/2020
- Published in Tác phẩm mới
- 0
Thơ Hoàng Chiến - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ - sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 11/2020
Ngày 3/12/2020, tại Nhà sáng tác Đà Lạt đã tiến hành tổ chức Lễ kết nạp Đảng viên cho quần chúng ưu tú Nguyễn Thị Thương – kế toán Nhà sáng tác Đà Lạt.
Dự Lễ kết nạp có đồng chí Võ Văn Quốc Bình – Bí thư Chi bộ, Giám đốc Nhà sáng tác Đà Lạt cùng toàn thể đảng viên và công đoàn viên ưu tú của Nhà sáng tác Đà Lạt.
Trải qua quá trình phấn đấu, rèn luyện của bản thân cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn của Chi bộ Nhà sáng tác Đà Lạt, được sự đồng ý từ Đảng bộ Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, quần chúng ưu tú Nguyễn Thị Thương đã vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng.
Lễ kết nạp đảng viên của Nhà sáng tác Đà Lạt đã diễn ra trong không khí trang nghiêm, đúng trình tự và thủ tục theo điều lệ Đảng. Tại buổi lễ, đồng chí Võ Văn Quốc Bình đã trao quyết định kết nạp Đảng cho đồng chí Nguyễn Thị Thương.
Dưới cờ tổ quốc, cờ Đảng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng sự chứng kiến của các đảng viên trong Chi bộ, đồng chí Nguyễn Thị Thương đã tuyên thệ lời thề của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hứa sẽ tiếp tục phấn đấu để luôn xứng đáng là người đảng viên gương mẫu, đóng góp sức mình thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị của Chi bộ, góp phần xây dựng Chi bộ ngày càng vững mạnh.
Đồng chí Bí thư Chi bộ mong muốn đồng chí Đảng viên mới sẽ tiếp tục cố gắng phấn đấu và phát huy hơn nữa trong công tác, rèn luyện phẩm chất đạo đức trong suốt thời gian thử thách và sau đó, xứng đáng trở thành người đảng viên gương mẫu, đóng góp sức mình thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị của Chi bộ Nhà sáng tác Đà Lạt, góp phần xây dựng Chi bộ Nhà sáng tác Đà Lạt ngày càng vững mạnh.
Thơ Nguyễn Xuân Đạt - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ - sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 11/2020
HƯƠNG BIỂN
Em thả bùa yêu vào biển
Tôi ngu ngơ trên bờ cát mịn
Say sóng chiều...
Ngã gục vào đêm
Mơ hoài nàng Tiên Cá
Đêm
Ầm ào sóng vỗ
Bên em ly cafe phố
Biển dâng hương
Em trao ánh mắt
Ánh đèn màu rung theo từng nốt nhạc
Biển bồng bềnh trong tim
Bên em
Ly cafe sủi bọt
Tôi giấu nụ cười em vào ống hút
Cạn lời em tận đáy lòng
Em đốt tôi bằng ánh mắt đêm
Tôi cháy ỉ âm bằng củi lửa thơ
Thơm thơm kỷ niệm
Mặn nồng hương biển
Đêm Vũng Tàu
Mộng mơ...
CUỘC ĐỜI, VĂN CHƯƠNG VÀ BÈ BẠN
Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá Nguyễn Khắc Xương đã “lập thân, lập nghiệp, lập danh” độc lập, không “núp bóng” cha mình - thi sĩ Tản Đà. Ông cặm cụi như cái kiến tha lâu đầy tổ, như cánh ong siêng năng góp mật dâng đời, để trở thành nhà nghiên cứu văn học dân gian thâm hậu. Sắp đến ngày giỗ hết của ông, tôi viết bài này hy vọng mang đến cho người đọc một góc tiếp cận về cuộc đời, văn chương và bè bạn của một bậc đại thụ trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian vùng đất Tổ.
ẤM ÁP TRONG LÒNG BÈ BẠN
"Nguyễn Khắc Xương, cây đại thụ văn hóa dân gian tỏa bóng vùng châu thổ sông Hồng. Ông nổi tiếng vì sự am hiểu sâu sắc về vùng đất Tổ từ trấn Sơn Nam Hạ tới miền trung du Bắc bộ và cả Kinh thành Thăng Long. Từ thời trai trẻ, ông điền dã, sưu tầm, nghiên cứu mọi miền quê để chắt chiu, gom góp dựng lên tòa lâu đài “Truyền thuyết Hùng Vương”, “Truyền thuyết Trưng Vương”. Dưới góc độ văn hóa dân gian, ông cùng các nhà khảo cổ, lịch sử, dân tộc học có công vén bức màn sương khói thời gian để bước vào tòa lâu đài chính sử thời dựng nước Văn Lang"... Đó là nhận xét của Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Trưởng Chi hội Lý luận - Phê bình thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh về nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương.
Khi thứ nữ của ông là chị Mai Thoa có gửi tặng tôi cuốn sách "Nguyễn Khắc Xương trong lòng bè bạn". Nhìn nét ký, dòng tên ông ghi dưới dấu "kính biếu" nghiêng nghiêng, run run tôi vô cùng xúc động, bởi đó là chữ ký của người đã đi xa…
Nhìn tấm ảnh in trên trang bìa, phải công nhận trưởng nam của thi sĩ Tản Đà đẹp lão. Dưới vầng trán rộng, mái tóc dài chấm vai, xõa ra như mây trắng bồng bềnh là ánh mắt vẫn đầy khát vọng sau cặp kính dày cộp đọng giọt mồ hôi ngày hạ. Tia nắng chiều khúc xạ trên thấu kính lung linh như hai ngọn nến. Trong ánh nhìn bậc cao niên, tôi thấy ông như vẫn dồi dào năng lượng nghiên cứu và sáng tạo.
Có thể có người còn chưa biết Nguyễn Khắc Xương là tác giả của hàng trăm đầu sách đã được xuất bản, được giới nghiên cứu tôn vinh là "cây đại thụ" văn hóa dân gian đất Tổ. Ông là một trong những nhà nghiên cứu có công lớn làm sáng tỏ thời đại Hùng Vương dựng nước, đưa giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Hát Xoan Phú Thọ, Hát Ca trù...trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nguyễn Khắc Xương còn là nhà "Tản Đà học" số 1 cùng với công việc sáng tác văn học. Vì thế, chính ông lại là đề tài, đối tượng tìm hiểu, nghiên cứu, phản ánh, sáng tác của giới báo chí, văn học, nghệ thuật, và từ góc độ này, ta có thể thấy một Nguyễn Khắc Xương trong lòng bè bạn thân thương, ấm áp đến nhường nào!
Hội tụ trong tập sách "Nguyễn Khắc Xương trong lòng bè bạn" là những bài viết của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà giáo và các tác giả khác yêu quý, mến phục ông. Giáo sư, Tiến sĩ Đào Thái Tôn; Thạc sĩ văn chương Đỗ Nguyên Thương viết "Đôi điều về nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương". Nhà báo Hà An kể lại câu chuyện "Gặp trưởng nam của thi sĩ Tản Đà". Tác giả Nguyễn Anh Đào giới thiệu công trình sưu tầm, biên soạn "Tản Đà toàn tập" và "Nhà Tản Đà học Nguyễn Khắc Xương". Ngô Kim Đỉnh nhìn nhận ông ở vị trí "Nhà Phú Thọ học". Nhà báo Đỗ Hà kể lại câu chuyện Tản Đà "Ngày ba mươi Tết ngẫu hứng ra đi" và hành trình "65 năm giữ nếp nhà" của người con trai trưởng. Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, nhà thơ Nguyễn Hưng Hải có nhiều bài viết công phu về con trai ông "thần ngông". Nguyễn Tham Thiện Kế kể lại câu chuyện về mối quan hệ thâm sâu giữa nhà văn Nguyễn Tuân với con trai Tản Đà là Nguyễn Khắc Xương... Một số bài viết khác giới thiệu những công trình nghiên cứu của ông về Hát Xoan Phú Thọ, Truyền thuyết Hùng Vương, Truyền thuyết Trưng Vương; kể lại những chuyện "đời thường" rất đỗi hồn nhiên của bậc "tiên chỉ" trong làng nghiên cứu văn học dân gian đất Tổ...
Đọc “Nguyễn Khắc Xương trong lòng bè bạn” không khó để cảm nhận tình yêu của người đời đối với ông. Từ Tân Linh, Vi Thùy Linh - những nhà văn, nhà báo tài hoa đến các họa sĩ, nhà thơ, nhà văn như Cao Văn Định, Đỗ Ngọc Dũng, Vi Quốc Hiệp, Nguyễn Anh Tuấn, Thảo Phương, Trương Văn Quân, Cao Văn Thịnh, Phương Quý, Kim Ngọc Đại... đã viết về ông dưới nhiều góc độ tiếp cận.
Nhà thơ, nhà giáo, nhà “câu đối học” Phan Chúc nay cũng đã ngoại "bát niên" đến với ông lúc sinh thời như một người bạn vong niên, tự nguyện trở thành "liên lạc viên", cầu nối chuyển bài của Nguyễn Khắc Xương tới các cơ quan văn học, báo chí Trung ương. Ông Chúc có những câu đối quá hay kính tặng bậc đàn Anh. Gần hai chục năm trước, nhân lễ mừng thọ ông Xương, nhà giáo nghèo viết chữ thảo trên giấy giang đề tặng đôi câu đối: Bảy lăm năm nối nghiệp thi thư, bút mòn còn tre núi Tản; Muôn vạn dặm theo đường kinh sử, mực hao có nước sông Đà. Tâm đắc và quý trọng chữ tặng của bạn vong niên, nên dù chuyển nhà, ông Xương vẫn dành vị trí trang trọng bên di ảnh Tản Đà để treo.
Xưa cụ Nguyễn Khắc Hiếu đã tự bạch: Trời sinh ra bác Tản Đà / Quê hương thời có, cửa nhà thì không. Cụ sinh ngày 20-4 và mất cùng ngày ở tuổi 40. Nay trưởng nam Nguyễn Khắc Xương đã 94 tuổi, có hai quê là Ba Vì và Phú Thọ, lại có cửa nhà đàng hoàng phía trong ngõ phố đường Lê Quý Đôn ở Việt Trì. Đây là nơi lui tới thường xuyên của các bậc hậu sinh muốn "tầm sư học đạo". Ông đã tạo nên một sự nghiệp nghiên cứu đồ sộ vì một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, là người duy nhất được UBND tỉnh Phú Thọ hai lần tặng giải thưởng Hùng Vương về văn học nghệ thuật. Và, hơn tất thẩy, ông Nguyễn Khắc Xương còn hiến dâng cho Tổ quốc liệt sĩ Nguyễn Tất Hiển - cháu đích tôn của Tản Đà - khi anh đang tuổi hai mươi. Cùng với sự quan tâm của Đảng, nhà nước đối với gia đình liệt sĩ; nhà nghiên cứu văn hóa dân gian còn có được sự quý thương, nể trọng của nhiều người cầm bút như đã thấy từ cuốn sách "Nguyễn Khắc Xương trong lòng bè bạn".
Ngày 5/12, tại Nhà sáng tác Đà Lạt, Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã tổ chức khai mạc Trại sáng tác Âm nhạc 2020.
Dự khai mạc có nhạc sỹ Bùi Bá Quảng – đại diện Hội Nhạc sỹ Việt Nam; ông Võ Văn Quốc Bình – Giám đốc Nhà sáng tác Đà Lạt; ông Hà Hữu Nết – Phó chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng; đại diện Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng, đại diện Sở Văn hoá Thể thao Du lịch Lâm Đồng và 15 nhạc sĩ là hội viên đến từ các chi hội thuộc các tỉnh, thành miền duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Hà Nội, Quảng Ninh.
Trong thời gian 15 ngày, các nhạc sĩ sẽ cùng nhau trao đổi kinh nghiệm sáng tác, có những chuyến đi thực tế thâm nhập vào đời sống lao động sản xuất của nhân dân các dân tộc Lâm Đồng, tham quan các danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Đà Lạt. Từ đó tạo nguồn cảm xúc tươi mới cho ra đời những tác phẩm hay mang hơi thở, nhịp điệu, hình ảnh tươi đẹp của quê hương, đất nước, của con người Lâm Đồng – Đà Lạt.
Phát biểu tại lễ khai mạc, nhạc sỹ Bùi Bá Quảng mong muốn các nhạc sĩ tham dự trại sẽ cho ra đời nhiều ca khúc mang tính nghệ thuật cao, khám phá những bút pháp thể hiện mới, với ngôn ngữ âm nhạc mới, nội dung, đề tài hướng đến thực tiễn cuộc sống. Trại sáng tác lần này cũng là dịp để Hội Nhạc sĩ Việt Nam tập huấn nâng cao tính chuyên nghiệp trong khí nhạc, nâng cao chất lượng ca khúc viết nên những tác phẩm hay, mang tầm thời đại, được công chúng đón nhận.
Ngày 5/12, tại Nhà sáng tác Đà Lạt, Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã tổ chức khai mạc Trại sáng tác Âm nhạc 2020.
Dự khai mạc có nhạc sỹ Bùi Bá Quảng – đại diện Hội Nhạc sỹ Việt Nam; ông Võ Văn Quốc Bình – Giám đốc Nhà sáng tác Đà Lạt; ông Hà Hữu Nết – Phó chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng; đại diện Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng, đại diện Sở Văn hoá Thể thao Du lịch Lâm Đồng và 15 nhạc sĩ là hội viên đến từ các chi hội thuộc các tỉnh, thành miền duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Hà Nội, Quảng Ninh.
Trong thời gian 15 ngày, các nhạc sĩ sẽ cùng nhau trao đổi kinh nghiệm sáng tác, có những chuyến đi thực tế thâm nhập vào đời sống lao động sản xuất của nhân dân các dân tộc Lâm Đồng, tham quan các danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Đà Lạt. Từ đó tạo nguồn cảm xúc tươi mới cho ra đời những tác phẩm hay mang hơi thở, nhịp điệu, hình ảnh tươi đẹp của quê hương, đất nước, của con người Lâm Đồng – Đà Lạt.
Phát biểu tại lễ khai mạc, nhạc sỹ Bùi Bá Quảng mong muốn các nhạc sĩ tham dự trại sẽ cho ra đời nhiều ca khúc mang tính nghệ thuật cao, khám phá những bút pháp thể hiện mới, với ngôn ngữ âm nhạc mới, nội dung, đề tài hướng đến thực tiễn cuộc sống. Trại sáng tác lần này cũng là dịp để Hội Nhạc sĩ Việt Nam tập huấn nâng cao tính chuyên nghiệp trong khí nhạc, nâng cao chất lượng ca khúc viết nên những tác phẩm hay, mang tầm thời đại, được công chúng đón nhận.
Theo kế hoạch tổ chức trại sáng tác năm 2020, Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật thành phố Đà Nẵng phối hợp với Trung tâm hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức cho hội viên các Hội chuyên ngành đi dự Trại sáng tác tại thành phố Vũng Tàu.
Ngày 1/12/2020, Trại sáng tác đã khai mạc tại Nhà sáng tác Vũng Tàu. Dự khai mạc có ông Trương Duy Huyến - Phó chủ tịch Liên hiệp Hội - Trưởng đoàn; bà Huỳnh Hà Quỳnh Châu – Phó Giám đốc Nhà sáng tác Vũng Tàu và 12 thành viên thuộc các chuyên ngành: mỹ thuật, văn học, văn nghệ dân gian, âm nhạc, sân khấu.
Trong thời gian dự trại, các trại viên sẽ tập trung hoàn thành bản thảo, các tác phẩm đã đăng ký, thâm nhập thực tế tìm hiểu đời sống văn hóa xã hội tại địa phương nhằm tạo cảm hứng và tích lũy tư liệu phục vụ cho việc sáng tác của mỗi văn nghệ sĩ.
Thay mặt Nhà sáng tác Vũng Tàu, bà Huỳnh Hà Quỳnh Châu đã nồng nhiệt chào đón các văn nghệ sỹ Đà Nẵng. Nhà sáng tác Vũng Tàu sẽ đảm bảo mọi nhu cầu ăn, nghỉ, sinh hoạt của các văn nghệ sỹ, giúp các văn nghệ sỹ toàn tâm toàn ý sáng tác để có thể có được nhiều tác phẩm chất lượng và có một kỳ Trại sáng tác thành công.
Từ ngày 26/11 - 2/12/2020, Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam đã tổ chức thành công Trại sáng tác ảnh nghệ thuật mở rộng cho hội viên Khu vực Miền Đông Nam bộ, Nam Trung bộ - Tây Nguyên và Đồng bằng sông Hồng tại Nhà sáng tác Đại Lải.
Đây là hoạt động nghiệp vụ nằm trong khuôn khổ 03 trại sáng tác hàng năm được Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật hỗ trợ tổ chức. Trại sáng tác bao gồm 30 nghệ sỹ nhiếp ảnh đi thực tế sáng tác trong 3 ngày tại Vĩnh Phúc và các tỉnh lân cận như Tuyên Quang, Lào Cai...do ông Nguyễn Đức Diệu - Trưởng Ban Tổ chức - Thi đua - Hội viên Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam phụ trách công tác tổ chức và chuẩn bị nội dung sinh hoạt Trại.
Với tinh thần trách nhiệm và kinh nghiệm tổ chức nhiều Trại gần đây, Hội tiếp tục tạo điều kiện cho các hội viên được tác nghiệp không chỉ tại xung quanh khu vực đặt Trại (tỉnh Vĩnh Phúc), mà còn xây dựng kế hoạch hỗ trợ cho các nghệ sĩ được đi thực tế sáng tác tại tỉnh miền núi Tuyên Quang.
Do có sự chuẩn bị và tiền trạm rất kỹ trước đợt sáng tác nên các nghệ sĩ đã nhận được sự hỗ trợ tốt nhất của các đơn vị liên quan trong huyện. Đặc biệt, tại Lâm Bình, một số hội viên Chi hội tỉnh và lãnh đạo các ban ngành của huyện đã tạo điều kiện hỗ trợ tối đa cho đoàn nghệ sĩ của Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam trên tất cả các mặt hoạt động.
Sau chuyến tham quan, sáng tác nhiều hình ảnh đẹp về cảnh quan thiên nhiên nổi tiếng - được ví như "Hạ Long trên cạn giữa đại ngàn" của Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Lâm Bình, đoàn tiếp tục có thêm những chất liệu nhiếp ảnh và niềm cảm hứng sáng tác đặc biệt với những nét văn hóa đặc sắc được bảo tồn khá nguyên vẹn của bà con dân tộc Dao đỏ, Dao tiền nơi đây.
Sau những ngày hăng say sáng tác nghệ thuật, với những cảm xúc mới mẻ, việc các hội viên thu được rất nhiều khoảnh khắc đẹp cho thấy một thực tế về tính hiệu quả của các trại sáng tác thời gian gần đây khi những người làm công tác tổ chức đã biết chú ý lắng nghe, nắm bắt nhu cầu thực tế của các hội viên để điều chỉnh và tạo điều kiện tốt nhất, hướng đến tính chuyên nghiệp ngày càng cao trong hoạt động tổ chức Trại sáng tác.
Ngày tổng kết, Ban Tổ chức cũng đã dành thời gian để các hội viên họp mặt, tự thuyết trình về ảnh sáng tác trong chuyến đi, sau đó lắng nghe ý kiến, góp ý của các đồng nghiệp, thông qua đó cùng nhau học hỏi, rút kinh nghiệm... Chính cảm xúc mới mẻ và sự chu đáo của Ban Tổ chức đã mang lại hiệu quả thực sự cho hành trình sáng tác nghệ thuật của các nghệ sĩ, thể hiện rõ nhất tại chất lượng các tác phẩm ảnh mà trại viên nộp báo cáo kết quả.
Với sự quan tâm sâu sát của Hội Nghệ sỹ nhiếp ảnh Việt Nam, sự giúp đỡ nhiệt tình của Nhà sáng tác Đại Lải, lãnh đạo địa phương và các nghệ sĩ “chủ nhà” nơi mở trại, một lần nữa Trại sáng tác ảnh nghệ thuật tại Đại Lải - Vĩnh Phúc đã thành công tốt đẹp. Mỗi đợt học tập, sáng tác với mô hình đổi mới của trại sẽ trở thành bệ đỡ để bồi tụ thêm cho sự phát triển chung của phong trào Nhiếp ảnh Việt Nam.
Nguồn: vapa.org.vn
Lý luận phê bình văn học của Nguyễn Sản – Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ - sáng tác tại Nhà sáng tác Vũng Tàu tháng 11/2020.
CUỘC ĐỜI, VĂN CHƯƠNG VÀ BÈ BẠN
Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá Nguyễn Khắc Xương đã “lập thân, lập nghiệp, lập danh” độc lập, không “núp bóng” cha mình - thi sĩ Tản Đà. Ông cặm cụi như cái kiến tha lâu đầy tổ, như cánh ong siêng năng góp mật dâng đời, để trở thành nhà nghiên cứu văn học dân gian thâm hậu. Sắp đến ngày giỗ hết của ông, tôi viết bài này hy vọng mang đến cho người đọc một góc tiếp cận về cuộc đời, văn chương và bè bạn của một bậc đại thụ trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian vùng đất Tổ.
CUỘC ĐỜI VÀ VĂN CHƯƠNG
Còn nhớ, cách đây 9 năm, nhằm đúng ngày Nô-en, tại tư gia, con cháu nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Khắc Xương tổ chức một tiệc nhỏ để mừng ông con trưởng của thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tròn tuổi 90. Người xưa ví von: Thất thập đã là “cổ lai hy”, bát thập “như đại phúc” thì cửu thập “như nhân tiên”.
Năm ấy, trong ngôi nhà “cấp 5” đơn sơ nằm sâu trong con ngõ nhỏ bên đường Lê Quý Đôn, ở khu 9 phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì đang có hai “nhân tiên” là ông bà Nguyễn Khắc Xương. Đầy đặn "cửu thập niên" nhưng cụ ông vẫn minh mẫn dù bước đi có phần chậm chạp. Ít hơn cụ ông vài tuổi nhưng do phải vất vả thân cò “quanh năm lặn lội ở mom sông, nuôi đủ bảy con với một chồng” nên cụ bà nay đã yếu và hơi lẫn. Dưới vầng trán rộng phủ mây trắng bồng bềnh là ánh mắt tinh anh sau cặp kính lão, ông Xương vẫn chỉ cho tôi những con chữ li ti trong một tài liệu xuất bản từ năm 1997 của Tiến sĩ Lê Văn Kỳ ở Viện nghiên cứu văn hóa dân gian. Khổ thân con trẻ, sinh sau ông gần bốn mươi năm đã phải lôi mục kỉnh ra để cùng nhìn với “nhân tiên”. Ở cuốn sách ấy, ông Tiến sĩ họ Lê viết rằng: “Năm 1973, trên tạp chí Văn học, Nguyễn Khắc Xương công bố bài Tìm hiểu mối quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn xướng tín ngưỡng phong tục. Trong lịch sử của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền thuyết và hội lễ, bài viết của Nguyễn Khắc Xương là công trình duy nhất có những nhận xét xác đáng”. Đây là một khẳng định về giá trị học thuật trong tác phẩm của Nguyễn Khắc Xương, là minh chứng về sự thành công trên con đường sưu tầm và nghiên cứu văn hóa dân gian mà ông đã chọn sau khi đã qua mấy ngả rẽ từ đội viên tự vệ thành Hà Nội, đội viên tuyên truyền xung phong, chiến sĩ Ty Công an Hải Phòng, cán bộ ủy ban huyện Hạ Hòa. Sau gần chục năm “điền dã” tới 581 nơi thờ tự gồm đền, miếu, đình nghè; nghiên cứu gần 600 thần tích, ngọc phả cùng 80 di chỉ khảo cổ học, đến năm 1971, Nguyễn Khắc Xương đã cho ra mắt tác phẩm đầu tiên của mình: Truyền thuyết Hùng Vương. Tập sách quý này dường như cứ vài năm lại bổ sung, tái bản, có lần in tới 40 nghìn cuốn.
Từng đỗ tú tài Tây học, rất giỏi Pháp văn lại hiểu biết trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật cộng với sự dày công sưu tầm, nghiên cứu, nên số lượng các sản phẩm khoa học của ông ngày càng nhiều thêm. Sau truyền thuyết Hùng Vương là hàng loạt cuốn sách có giá trị: Truyền thuyết Trưng Vương; Hát Xoan, hát Ghẹo Vĩnh Phú; Tục ngữ, ca dao, dân ca Vĩnh Phú; Văn hóa làng Phú Thọ; Văn hóa Việt Mường trong mối quan hệ truyền thống; Văn hóa Mường Phú Thọ; các tập sách kể chuyện dân gian, thơ ca, ngạn ngữ dân gian đất Tổ; Nghiên cứu các hèm tục, lễ nghi dân gian, các trò chơi, trò diễn hội làng. Đặc biệt, cuốn Hát Xoan Phú Thọ là một tài liệu quý, góp phần hoàn thiện hồ sơ để UNESCO công nhận hát Xoan là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Trong bài báo Con của những người nổi tiếng in trên báo Truyền hình cách đây gần hai chục năm, nhà văn Băng Sơn viết: “Con trai nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là ông Nguyễn Khắc Xương- một nhà nghiên cứu thật sâu và xuất sắc về Nguyễn Khắc Hiếu – tức là về người cha thân yêu của mình”. Điều ấy lý giải vì sao Nguyễn Khắc Xương có các công trình nghiên cứu rất đồ sộ về cha mình - ông Thần Ngông: Tuyển tập Tản Đà, Giai thoại Tản Đà, Tản Đà trong lòng thời đại với gần 3.000 trang in.
Từ người nghiên cứu, với thành tựu khoa học của mình, ông Nguyễn Khắc Xương lại là đối tượng nghiên cứu của văn học. Bằng chứng là chính giáo sư Lê Chí Quế ở Đại học sư phạm Hà Nội đã viết thư tay cho ông mong được giúp đỡ để cô sinh viên Nguyễn Thị Hồng Nhung hoàn thành khóa luận tốt nghiệp về “Sự đóng góp của nhà văn hóa Nguyễn Khắc Xương đối với ngành văn học dân gian và văn hóa dân gian”.
Từ tác phẩm đầu tay Truyền thuyết Trưng Vương, xuất bản năm 1971, các tác phẩm tiếp sau về văn hóa dân gian liên tục ra đời, được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Ủy ban Toàn quốc các hội văn học - nghệ thuật Việt Nam trao tặng giải thưởng: Tục ngữ ca dao, dân ca Vĩnh Phú (1994), Ví giao duyên (1995), Hát xoan Vĩnh Phú (1996), Hội làng quê, Vĩnh Phú (1997), Văn hóa làng Phú Thọ (viết chung - 1998). Ông đã được UBND tỉnh Vĩnh Phú trao tặng giải thưởng Hùng Vương về văn học - nghệ thuật và được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Trước khi qua đời ở tuổi 97, ông hoàn thành bộ Toàn tập Tản Đà, tập hợp các trước tác của thân phụ mình.
THƠ - MỘT GƯƠNG MẶT NGUYỄN KHẮC XƯƠNG
Bấy lâu nay, người đọc chủ yếu biết nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Khắc Xương qua các công trình nghiên cứu, các tập sách có giá trị, như Truyền thuyết Hùng Vương, Trưng nữ Vương, Hát Xoan Ghẹo Vĩnh Phú, Đến với văn hóa Việt Mường, Hội làng quê đi từ đất Tổ... Ông còn được biết đến với tư cách "nhà Tản Đà học" bằng Tuyển tập Tản Đà, Ông Thần ngông, Tản Đà - Thơ và đời, Tàn Đà - một đời văn, Tản Đà trong lòng thời đại, Tản Đà trong văn học sử.... Nhưng hẳn là ít người được biết đến ông trong một bình diện khác - Nguyễn Khắc Xương của... Thơ!
Kỷ niệm sinh nhật lần thứ 95 của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Khắc Xương, Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Phú Thọ đã xuất bản tập thơ "Hoa táo vườn xưa" như món quà mừng ông thêm tuổi mới.
"Hoa táo vườn xưa" là tập thơ tình, tập thơ duy nhất của Nguyễn Khắc Xương. 102 bài thơ chứa đựng những cảm xúc tình yêu được giữ gìn từ thuở tuổi ba mươi đến lúc xế chiều. Mỗi bài thơ là một kỷ niệm ngọt ngào, say đắm của người đàn ông tài hoa, đa tình. Đọc xong và gấp cuốn sách nhỏ xinh, hơn trăm rưởi trang in, trong ta dường như vẫn hình dung rõ cái màu bàng bạc, óng ánh, gợi nhớ đến nao lòng của chùm hoa táo đầu mùa. Màu hoa huyền ảo, lãng đãng trong sương gợi nhớ về một miền ký ức. Những cánh hoa tinh khôi như vẫn còn rơi rơi trong khu vườn đầy kỷ niệm.
Người chiến binh ra đi từ một khu vườn nhỏ, có cây táo bên bờ ao trĩu quả ngon lành. Tạm biệt một tình yêu ngọt ngào hơn nghìn ngày tuổi nhưng vẫn rụt rè chưa nụ hôn trao nhau, "anh ra đi hoa táo trắng hồn". Ba mươi năm ròng, qua hai cuộc trường chinh mịt mù khói lửa, mỗi "bước chân đi, hoa táo trắng hồn", để rồi: Buổi gặp lại hai mái đầu điểm bạc/ Kỷ niệm xưa nhắc lại một đôi câu/ Ta vẫn thương nhau như buổi ban đầu/ Nhưng chuyện cũ cũng đắng lời tiếc hận/ Không là tình yêu cũng không là tình bạn/ Thương nhau trọn đời không một lần hôn/ Cây táo vườn xưa hoa nở trắng hồn anh! Đó là một câu chuyện tình cảm động, dù kết thúc không phải là sự đoàn tụ viên mãn, nhưng trong anh, ký ức tình yêu vẫn xanh tươi, hoa táo vườn xưa vẫn trắng ngần, bảng lảng.
Đời thơ Nguyễn Khắc Xương được ghi dấu bằng những bài thơ đầu tay viết khi chớm tuổi ba mươi. Đọc các bài thơ: Không đề 1, Đi dưới trời xanh, Chiều quê, Đêm Ba Vì, Chiều rừng, Rừng Xuân... ta bắt gặp ánh mắt họa sĩ trong tâm hồn thi sĩ, chiến sĩ. Dọc đường hành quân, Nguyễn Khắc Xương vẽ trước mắt chúng ta bức tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ, dù gam màu "nóng" hay "lạnh", nhưng tất cả đều chan chứa tình đời, tình người. Hiu hiu gió tự xa về/ Rừng nghe lành lạnh, chiều nghe buồn buồn/ Nắng về đỉnh núi cô đơn/ Thung sâu nắng nhạt, đường son mờ dần...(Không đề 1); Ta đi dưới trời xanh/ Trong nắng vàng hổ phách/ Ta đi dưới trời xanh/ Mê giữa đời bát ngát... (Đi dưới trời xanh); Ngàn lau bạc tím lương đèo/ Gió lên hiu hắt giữa chiều mênh mông/ Rừng xanh hoa mí tím hồng/ Hoa mua tím mát còn vương nắng chiều (Chiều rừng)...Đồng quê bình dị êm đềm/ Xanh mờ dáng núi, cong mềm dòng sông/ Lúa xanh xa tít cánh đồng/ Con mương mới đắp lượn vòng quanh quanh/ Hàng cây thấp thoáng mái tranh/ Màu vàng cũng nhạt, màu xanh cũng mờ... (Bức tranh đồng quê)...
Nổi tiếng về nghiên cứu văn học dân gian, với ông Nguyễn Khắc Xương, thơ không phải là sự nghiệp mà chỉ là phút "nghỉ tay" giữa bộn bề tư liệu, là chốc lát dừng chân trên bước đường điền dã kiếm tìm. Gom nhặt trong nửa thế kỷ để có hơn trăm bài thơ là những tâm trạng yêu thương, buồn nhớ, khắc khoải, mong chờ; là những khoảng tâm thức lắng đọng trong dòng chảy cuộc đời: Có những chiều buồn giăng hàng cây/ Hoàng hôn nỗi nhớ cứ giăng đầy/ Thôn xa khói nhạt bay phơ phớt/ Mắt nhớ về đâu đôi mắt ngây? (Nhớ); Tình yêu không nói băng lời/ Nói bằng ánh mắt/ Tình yêu không nói băng lời/ Nói bằng đôi môi/ Tình yêu không nói băng lời/ Nói bằng trái tim thổn thức/ Bằng những vần thơ rạo rực/ -Tình ơi vỗ cánh về đâu? (Tình không nói); Buồn trông con nhện giăng tơ/ Tơ lòng giăng mắc, ai chờ - chờ ai?/Buồn trông sương ướt bông nhài/ Cho hoa thêm lạnh, cho dài nỗi thương/... Buồn trông, trông mãi trông hoài/ Trông ai mau đến cùng ai trong buồn (Buồn trông)...
Nguyễn Khắc Xương sinh sau "ông thần thơ tình" Nguyễn Bính 4 năm, có thể xem như là cùng thế hệ. Khi con trai cụ Tản Đà có những bài thơ đầu tiên thì sự nghiệp thi ca của Nguyễn Bính đã rực rỡ ngang trời. Vậy nên cũng như lòng ngưỡng mộ, thơ người sau có chút gì đó chịu ảnh hưởng của thơ người đi trước cũng là điều dễ hiểu. Đọc những dòng thơ của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Khắc Xương, tôi nhớ đến những câu thơ đầy màu sắc và tâm trạng của Nguyễn Bính: Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh/ Áo em ai nhuộm mà anh thấy chàm/ Da trời ai nhuộm mà lam/ Tình ta ai nhuộm ai làm cho phai? Đọc một vài bài thơ với cái tứ dù "quen quen" dáng tạng của người đi trước nhưng vẫn đủ gợi cho ta những yêu thương, mong ngóng nơi làng quê thanh bình: Đôi ta khác xã cùng quê/ Gần nhà xa ngõ đi về có nhau/ "Nhà em có một giàn trầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng"/ Nhà em có búi tơ hồng/ Nhà anh có một cây hồng thắm hoa...(Bao giờ). Cùng tâm trạng chị Trúc của Nguyễn Bính trong bài lục bát Lỡ bước sang ngang, là tâm trạng cô dâu trong Đám cưới em của tác giả "Hoa táo vườn xưa" với ba khổ thơ 5 chữ: Hôm nay đám cưới em/ Bến thu sông vàng nắng/ Hôm nay đám cưới em/ Mắt em buồn xa vắng/ Trời thu đầy mây trắng/ Mắt em buồn mênh mang...
Đọc "Hoa táo vườn xưa" thấy rõ ràng Nguyễn Khắc Xương không chủ ý làm thơ mà là bất chợt thơ đến với ông trong xúc cảm cảnh với tình. Ông bộc bạch điều này trong bài thơ Sáu mươi xuân viết vào tối mùng 2 Tết Quý Mùi - 2003: Sáu mươi tuổi chẵn vẫn vui tươi/ Xuân vẫn cùng ai nở nụ cười/ Dòng thơ đẹp mãi tình xuân thịnh/ Cho mãi tình xuân thắm với đời. Làm thơ như là sự tri ân với cuộc đời.
Khi đọc "Hoa táo vườn xưa" tôi thấy thật thú vị khi gặp những tứ thơ tình bình dị, những câu thơ hồn hậu trao gửi niềm yêu, nỗi nhớ. Với tôi, thơ tình Nguyễn Khắc Xương như một khái niệm là lạ của vườn thơ đất Tổ.
Cảm hứng mang tên Đà Lạt
Hơn 10 ngày tham gia Trại sáng tác Văn học nghệ thuật, văn nghệ sĩ Phú Yên hoàn thiện tác phẩm đã phác thảo và sáng tác mới, kết quả thật đáng trân trọng. Trở về với gia đình, với cơ quan và công việc thường ngày, trong mỗi người chúng tôi chắc chắn sẽ còn đọng lại nhiều cảm xúc khó phai, và những tác phẩm được khơi nguồn từ Nhà sáng tác sẽ không chỉ dừng lại ở Trại sáng tác này.
Với văn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Phú Yên, Nhà sáng tác Đà Lạt đã trở thành nơi thân thiết tự bao giờ. Tính từ năm 2006, đây là lần thứ 3 Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Phú Yên đăng ký mở trại sáng tác tại địa chỉ này và đã được Trung tâm Hỗ trợ sáng tác Văn học nghệ thuật (thuộc Bộ VH-TT-DL) ra quyết định mở Trại sáng tác. Đoàn văn nghệ sĩ Phú Yên gồm 14 người từ 5 chuyên ngành: Văn học, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Âm nhạc và Sân khấu đã tham gia trại sáng tác này từ ngày 18-29/11.
Điều kiện ăn ở và khâu phục vụ tại Nhà sáng tác có cảm giác gần gũi với sự thoải mái, tiện nghi như khách sạn. Mỗi phòng hai người. Bữa ăn luôn thay món hàng ngày. Các bạn phục vụ tuy ít người nhưng rất chu đáo và thân thiện. Vấn đề còn lại là tác phẩm trong đoàn như thế nào?
Nếu như văn học là lĩnh vực cần có độ lùi khá lâu để thẩm thấu về đất và người nơi mình đến, thì Nhiếp ảnh lại là lĩnh vực sở trường thu vào ống kính ngay những khoảnh khắc đẹp nơi vừa mới đặt chân. Tham gia đoàn lần này có 2 nghệ sĩ nhiếp ảnh mà phương tiện sáng tác là máy ảnh và các công cụ hỗ trợ được đầu tư khá chuyên nghiệp, đó là các tay máy Lê Hồng Nguyễn và Nguyễn Văn Thu.
Để có những bức nghệ thuật đẹp, các nghệ sĩ nhiếp ảnh phải vượt qua cái lạnh chớm đông và có phần thất thường của Đà Lạt đểvác máy ảnh cùng đồ nghề lỉnh kỉnh ra khỏi phòng từ 4-5 giờ sáng và trở về lúc tối mịt khi sương lạnh buốt da cùng bụng rỗng, nhằm chọn thời điểm có ánh sáng đẹp cùng với phong cảnh tuyệt vời nơi xứ sở ngàn hoa. Các tay máy đã chọn lọc 15 tác phẩm ảnh của 3 tác giả nộp lại Nhà sáng tác. Đây là nỗ lực không nhỏ của người nghệ sĩ tham gia trại.
Ở chuyên ngành Mỹ thuật, tham gia Trại lần này có 3 họa sĩ với 3 phong cách không phải là “dữ dội” nhưng thuyết phục được các anh chị em trong đoàn ở tinh thần làm việc nghiêm túc, sáng tạo cần mẫn, nâng niu từng ý tưởng thể hiện qua từng nét vẽ và sắc màu. 6 tác phẩm tranh của 3 họa sĩ nộp cho Ban tổ chức Trại sáng tác đã thể hiện điều đó. Người trẻ nhất đoàn là họa sĩ Kpă Tý (sinh 1984) đã chắt chiu từng điều kiện làm việc nơi đây và cho ra đời bức Trưa Đà Lạt đẹp như một bài thơ với màu vàng nhẹ của nắng và màu xanh thẫm hơi tối của rặng thông, tạo cảm giác buổi trưa nơi đây không giống một buổi trưa “truyền thống” theo gam màu chói gắt và cảm giác oi nồng. Kpă Tý đã nắm bắt được cái hồn của Đà Lạt qua “buổi trưa” yên bình và se lạnh này. Người 8x “trẻ nhì” là Trương Quốc Mỹ có 2 bức Hoa bất giao và Hoa dại cũng làm toát lên một cảm nhận “đặc sệt” Đà Lạt qua ngôn ngữ hội họa.
Sự tương phản giữa khối lớn sần sùi của gốc thông già cận cảnh và của cả rừng thông viễn cảnh, với những chấm nhỏ vàng tươi của vạt hoa dại bé bỏng trong rừng thông tạo cảm giác cái đẹp ở bất cứ đâu dù khiêm nhường vẫn không bị chìm khuất; ở khía cạnh khác, bức tranh là thông điệp về vẻ đẹp “ngàn hoa” luôn hiện hữu trong mọi không gian Đà Lạt! Khác với hai bạn trẻ, Góc hồ Xuân Hương và Mùa hoa dã quỳ của Huỳnh Ngọc Minh được nhìn từ góc độ truyền thống qua gam màu lạnh và bố cục quen thuộc.
Các tác phẩm tùy bút và truyện ngắn của nhà văn Trịnh Thị Phương Trà dạt dào cảm xúc; hai tác phẩm về nghiên cứu phê bình của PGS-TS Nguyễn Thị Thu Trang được viết công phu và tâm huyết, nhưng trong khuôn khổ bài viết này chủ yếu tập trung về bối cảnh ở Đà Lạt nên không đề cập chi tiết ở đây.
Rời xa Nhà sáng tác Đà Lạt, văn nghệ sĩ Phú Yên trở về với gia đình, với cơ quan và công việc thường ngày. Trong mỗi người chúng tôi chắc chắn sẽ còn đọng lại nhiều cảm xúc khó phai, và những tác phẩm được khơi nguồn từ Nhà sáng tác sẽ không chỉ dừng lại ở Trại này.
HUỲNH VĂN QUỐC
Nguồn: phuyenonline.com