Chùm tác phẩm ảnh nghệ thuật - Hội nhiếp ảnh Hà Nội (P1)
Chùm ảnh nghệ thuật của hội viên Hội nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội - sáng tác tại Trại sáng tác ảnh nghệ thuật Đại Lải tháng 8/2020.












- Published in Tác phẩm mới
- 0
Chùm ảnh nghệ thuật của hội viên Hội nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội - sáng tác tại Trại sáng tác ảnh nghệ thuật Đại Lải tháng 8/2020.












Lý luận phê bình của PGS.TS Trần Thị Việt Trung - Hội văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 7/2020.
CHUYỆN TÌNH KHAU VAI – DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
Tôi đã từng đọc truyện ngắn Chợ tình của nhà văn Tày – Cao Duy Sơn viết về Khau Vai với câu chuyện tình của một đôi bạn già (ông Sinh và bà Ếm) đã gần 80 tuổi mà vẫn cứ mỗi năm hồi hộp, đợi chờ mong ngóng… gặp nhau một lần dưới gốc cây sau sau già quen thuộc suốt mấy chục năm qua. Và tôi đã khóc trước vẻ đẹp của tình yêu, trước bi kịch của tình yêu, trước sức sống mãnh liệt không tuổi của tình yêu ở cái xứ xở vùng cao xanh thẳm, dữ dội mà lãng mạn, thấm đẫm tình người này. Tôi cũng đã đọc truyện ngắn Nước mắt Khau Vai của nhà văn Nguyễn Đức Hạnh (một người gắn bó lâu năm với miền núi) và cũng đã xúc động, xót xa, quặn thắt trước những mối tình dang dở của những người yêu nhau mà không lấy được nhau (bởi vô vàn những lý do khác nhau). Nước mắt của họ trong những lần gặp gỡ ở "Hội tình Khau Vai" – nếu tính cả trăm năm "thì đã đủ làm ngập cả vùng núi đá Khau Vai này rồi". Tôi cũng đã đọc khá nhiều bài thơ viết về chợ tình Khau Vai của các nhà thơ dân tộc thiểu số (và cả của các nhà thơ người Kinh nữa), trong đó có một bài thơ để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc – mà mỗi lần đọc lại vẫn cảm thấy "gai người", thấy nghẹt thở bởi những câu thơ đẫm nước mắt mà nóng bỏng, mà thiêu đốt cả trái tim: "Yêu nhau/ Trao hồn gửi vía cho nhau/ Dù không thành vợ thành chồng/ Nhưng hình bóng hai ta vẫn luôn ở trong nhau./ Em ơi!/ Yêu nhau không lấy được nhau/ Hẹn nhau đi chợ Khau Vai/ Mỗi năm ta gặp nhau một lần"! Ôi cái phiên chợ ấy – cái "Phiên chợ/ Như cái chảo thắng cố/ Nóng lên bao mối tình dang dở./ Phiên chợ/ Như cái thúng cỏ khô/ Chứa chất bao mối tình chờ đợi/ Phiên chợ như một cái địu hoa/ Mỗi năm chỉ nở một lần./ Mỗi năm chỉ nở một lần/ Mà cháy hồng cả trời đất/ Mà ướt đẫm cả một đời/ Khau Vai!". Đó là bài thơ viết về Khau Vai của nhà thơ dân tộc Giáy – Lò Ngân Sủn – một nhà thơ tình nổi tiếng của thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Thế nhưng, khi được đọc cuốn tiểu thuyết Chuyện tình Khau Vai của tác giả Nguyễn Thế Kỷ - tôi lại bị bất ngờ trước chính mình bởi sự xúc động mãnh liệt trước câu chuyện tình dang dở của đôi trai gái người Nùng và người Giáy trên mảnh đất vùng cao đầy thơ mộng và khắc nghiệt này; và bởi sự cuốn hút tới mức không thể dừng lại, bắt buộc phải đọc một mạch cho tới trang cuối cùng của cuốn sách. Vẫn là câu chuyện về một tình yêu dang dở của đôi trai gái miền núi; vẫn là chuyện mỗi năm hẹn gặp nhau một lần ở Khau Vai để tâm sự, xẻ chia… để vơi đi thương nhớ như một gánh nặng đè trĩu tâm hồn bóp nghẹt trái tim của mỗi kẻ tình nhân sau một năm không nhìn thấy mặt nhau, không nghe thấy tiếng nói của nhau… Thế nhưng, khi đọc cuốn tiểu thuyết này – tôi như đã nhận ra thêm nhiều ý nghĩa tiềm ẩn khác, đã phát hiện ra nhiều giá trị khác – ngoài ý nghĩa, giá trị ngợi ca, khẳng định vẻ đẹp đầy bi kịch của tình yêu, sự "bất tử" của tình yêu. Đó là cái gì vậy? là điều gì vậy mà khiến tôi bị ám ảnh, bị thôi thúc tìm hiểu và tìm câu trả lời khi tiếp cận cuốn sách này? Và cuối cùng, tôi cũng đã "nhận diện ra nó". Đó chính là: với cách tư duy của một nhà văn hóa, dưới góc nhìn và điểm nhìn văn hóa – tác giả Nguyễn Thế Kỷ đã viết về một tình yêu không trọn vẹn nhưng rất đẹp, rất mạnh mẽ, dữ dội, quyết liệt và đầy chất nhân văn, đậm bản sắc văn hóa tộc người – một cách chân thực, sâu sắc và cảm động. Chính vì vậy, đây không phải chỉ là một truyện viết về tình yêu đôi lứa đơn thuần, mà là một bức tranh sinh động về đời sống văn hóa tinh thần với những phong tục, tập quán, những nghi lễ, những cách suy nghĩ, những lối ứng xử mang nặng tính truyền thống ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực của những con người miền núi trong các mối quan hệ: gia đình, gia tộc và cộng đồng của mình! Bên cạnh đó là bức tranh về thiên nhiên hùng vĩ xinh đẹp, thơ mộng nhưng cũng đầy khắc nghiệt của vùng núi cao – môi trường sống của cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam ngàn năm qua. Trên cái phông nền văn hóa ấy, câu chuyện tình yêu của đôi "trai tài, gái sắc" – chàng Ba, nàng Út được hiện lên một cách sinh động, tự nhiên, chân thực tới mức như đang diễn ra trước mắt người đọc vậy.
Nàng Út là con gái duy nhất của vợ chồng Tộc trưởng Vương Vần Sáng (dân tộc Giáy) ở bản Ma Lé. Trong một lần đi chợ phiên đã gặp và yêu tha thiết một chàng trai dân tộc Nùng, mồ côi cha, sống với mẹ ở bản Pải Lủng. Tuy nghèo nhưng chàng Ba lại có "vóc dáng như thanh niên con nhà giầu. Da trắng như da con gái, môi đỏ, miệng lúc nào cũng cười tươi rói, răng trắng tinh"(1), lại có sức khỏe hơn người "Mình Ba thường làm bằng hai ba người cộng lại"; vì thế dụng cụ lao động nào của Ba "cũng phải to hơn, dài hơn bình thường. Người ta rèn con dao phải mất hai ngày, riêng dao của Ba phải rèn ba, bốn ngày mới xong"(2). Đặc biệt, chàng Ba lại là người con trai rất mực hiếu thảo với mẹ, rất thương người sẵn sàng giúp đỡ người khác khi hoạn nạn (đã không quản nguy hiểm, hút máu độc từ vết rắn cắn trên chân của Út, cõng Út vượt núi, vượt suối… đưa về tận cổng bản Ma Lé…); rất tài hoa nữa (thổi sáo rất hay "tiếng sáo như có linh hồn, quyến rũ…"(3), thuộc nhiều bài hát dân ca Nùng…; và trên hết là chàng Ba đã yêu nàng Út với một tình yêu nồng cháy, quyết liệt, thủy chung nhất mực! Nhưng tình yêu của họ không được cả hai bên gia đình chấp nhận – bởi nhiều lý do. Trước hết, bởi họ thuộc 2 dân tộc khác nhau (Nùng và Giáy) mà cha của nàng Út lại là một Tộc trưởng chỉ có một người con gái duy nhất "thì cái thằng làm chồng nó sau này còn thay ông làm Tộc trưởng", vậy thì: càng "không thể có chuyện một thằng người Nùng làm tộc trưởng của người Giáy được"(4). Sau đó – còn một lý do sâu sa, tế nhị nữa là: Ba lại chính là con trai của người phụ nữ Nùng xinh đẹp – tình yêu duy nhất của ông "dữ dội như sấm sét, tưởng chừng như có thể đánh sập cả ngọn núi, vùi lấp cả vực sâu", nhưng "cuối cùng vẫn phải chịu thua một dòng họ, một tộc người, một luật tục, một nếp nhà"(5) – ông, bà buộc phải xa nhau và đã để lại trong nhau một nỗi đau, một vết thương ứa máu, không thể thành sẹo được – dù đã hơn 20 năm trôi qua. Vì thế, Tộc trưởng Vương Vần Sáng đã quyết định tổ chức "kén rể" cho con với hy vọng gả Út cho một chàng trai người Giáy chính gốc, con một gia đình quyền thế của vùng để "môn đăng hộ đối" đảm bảo cho sự truyền chức Tộc trưởng dòng họ Vương sau này. Thế nhưng cái đêm trước ngày "kén rể" đó, nàng Út đã trốn qua cửa sổ, phi ngựa vượt núi, vượt suối sang bản Pải Lủng để tìm chàng Ba. Nàng Út xuất hiện ở nhà chàng Ba đúng vào lúc: Bà Liểng (mẹ Ba) vừa qua đời (bị ốm, bị sốt rất cao vì quá lo lắng, phiền muộn và đau khổ khi biết người con gái mà chàng Ba yêu, quyết lấy làm vợ - lại chính là con gái của kẻ đã phụ tình bà vì cái chức Tộc trưởng họ Vương bên bản Ma Lé của người Giáy). Nàng Út đã cùng chàng Ba phục tang bà Liểng như một người con dâu Nùng vậy. Tộc trưởng Vương Vần Sáng đã sai người bắt nàng Út về và quyết định gả nàng cho Cố Sầu – một "kẻ ăn người ở trong nhà", rất thô kệch, cục súc, nhưng trung thành với Tộc trưởng (như một con chó săn) lại có sức khỏe, và cơ bản là: "nó có thể thay ông gánh vác dòng tộc này. Để con gái bên cạnh nó thì dù có chết ông cũng yên tâm"(6) (cũng bởi tất cả đám con trai – con các gia đình quyền thế trong vùng đã… bỏ đi hết khi biết nàng Út đã "trốn nhà theo trai" ngay cái đêm trước ngày Tộc trưởng tổ chức kén chồng cho nàng). Nhưng đúng cái ngày đón dâu ấy thì nàng Út đã "biến mất", còn cô dâu trên lưng ngựa nhà Cố Sầu lại chính là Lả Nhinh – người em họ thân thiết của Nàng Út "đóng thế". Nàng Út và chàng Ba đã có những tháng ngày vô cùng hạnh phúc bên nhau trong ngôi nhà nhỏ ấm cúng giữa rừng sâu – một nơi rất xa hai bản Pải Lủng và Ma Lé. Trong khi đó, Cố Sầu bẽ bàng, tức tối, căm hận vì "bị lừa", bị mất vợ ngay trước mắt. Hắn dẫn người tới bản Pải Lủng, đốt nhà của chàng Ba, làm náo loạn cả bản Pải Lủng của người Nùng vốn xưa nay rất bình yên, ấm áp tình người. Hắn gây sự và đánh nhau với đoàn người Nùng sang bản Ma Lé để "nói chuyện phải trái" với nhà Tộc trưởng. Hắn như một con thú lên cơn điên, mỗi đêm sang bản Pải Lủng đốt một ngôi nhà của những người họ hàng với chàng Ba và dọa sẽ đốt hết cả làng nếu không đưa được Nàng Út trở về. Giữa hai làng: "ngọn lửa đã cháy quá lớn, cái vực giữa hai tộc người đã sâu tới mức không nhìn thấy đáy rồi. Lũ thanh niên hai bên bạc nhược vì mất ngủ, thức đêm mài dao, canh gác, suy kiệt vì đánh đấm. Người già chỉ biết khóc lóc và cầu khấn tổ tiên phù hộ"(7). Trong những ngày này, ở "ngôi nhà hạnh phúc" giữa rừng sâu, cả hai vợ chồng trẻ: Nàng Út và chàng Ba đều tự nhiên thấy rất nóng ruột, bồn chồn, khó chịu, mất ngủ,… và luôn có những giấc mơ thấy mẹ gọi trở về làng. Lả Nhinh đã chạy cả đêm vượt bao núi, bao rừng để tìm đến ngôi nhà của họ báo tin dữ. Vốn là những người giầu lòng nhân ái, yêu thương đến cả loài vật sống bên mình – nàng Út và chàng Ba quyết định quay trở về nhà, vì không muốn "một ngôi nhà nào nữa bị cháy", không muốn còn nghe thấy những "tiếng khóc than của người già, trẻ con, phụ nữ"(8) – cho dù tan nát trái tim, cho dù "linh hồn đã từ bỏ" khỏi thể xác của hai kẻ đã quá yêu nhau! Họ hẹn sẽ gặp lại nhau vào phiên chợ, ở chỗ lần đầu tiên họ gặp nhau – một lời hẹn định mệnh của đôi trai gái trước lúc chia ly. Nàng Út trở về nhà, đau khổ, ốm liệt giường hàng tháng trời; rồi khi "cái ốm tự đi", nàng trở nên câm lặng, sống như một cái xác không hồn. Cuộc đời làm vợ của Cố Sầu thực sự như một địa ngục đối với nàng. Điều khiến cho nàng "cố sống tiếp" – đó chính là "để chờ đợi mỗi năm một lần được gặp lại Ba ở đây"(9). Nhưng, cũng chỉ được gặp nhau một lần duy nhất, đến phiên chợ Khau Vai năm sau, Ba đã "chờ mãi, chờ mãi" mà không thấy Nàng Út đến! Nàng đã bỏ chàng "mà đi rồi", nàng đã "nhường sự sống cho đứa con bé bỏng" của nàng; nàng đã ra đi như một sự giải thoát tự nguyện khỏi cuộc hôn nhân "cưỡng bức", không tình yêu này! Nàng ra đi, "Trên miệng còn nguyên nụ cười tinh khôi như chưa hề trải qua bao đau khổ chất chồng"(10). Từ nay, cứ mỗi phiên chợ Khau Vai, "ở trên trời", nàng lại được nghe tiếng sáo của chàng; được nghe những bài hát dân ca Nùng ngọt ngào, thấm đẫm yêu thương của chàng; được gặp chàng trong "phiên chợ Tình của muôn đôi lứa yêu nhau mà không lấy được nhau, nhưng trái tim vẫn giành trọn cho nhau".
Nghẹn ngào và xúc động, nhưng khi gấp cuốn sách lại, người đọc lại không có cảm giác đau đớn, xót xa, trĩu nặng tâm tư như khi đọc những Truyện ngắn và các bài thơ trước đây, khi viết về đề tài Khau Vai của các tác giả khác. Một điều gì đó lớn hơn cả nỗi buồn của một tình yêu không trọn vẹn! Phải chăng, đó là vẻ đẹp của lòng nhân ái, của sự hy sinh, của lối ứng xử đầy chất nhân văn của những con người miền núi – những con người chân chất, thật thà, hồn nhiên, lãng mạn, nhưng cũng rất mãnh liệt, quyết liệt, không dễ dàng đầu hàng số phận, lùi bước trước khó khăn, thử thách. Nàng Út xinh đẹp, được nuông chiều từ tấm bé, nhưng lại là một người con gái giầu tình yêu thương (thương đến cả con vật (đàn chó con) khi chúng bị bắt mang đi bán ở chợ, nàng đã cho tiền người bán chó để người đó mang chó con về nhà cho chó mẹ nuôi lớn khôn hơn chút nữa). Vì thế, cho dù vì tình yêu – nàng Út đã dám "cãi lại cha mẹ", dám dẫn người yêu về tận nhà để thưa chuyện với bố mẹ; dám nửa đêm, vượt qua cửa sổ, phi ngựa vượt rừng, vượt suối đến nhà người yêu; dám "đánh tráo cô dâu" trong lễ cưới để trốn cùng người yêu đi tận vào rừng sâu để sống vợ chồng với nhau… Nhưng nàng Út lại cũng vì quá thương mẹ, thương cha, thương bao người dân vô tội của bản Pải Lủng ngày đêm sợ hãi, căng thẳng vì lo bị đập phá, giết hại, bị đốt nhà… bởi sự trả thù điên loạn của Cố Sầu – mà nàng đã phải quyết hy sinh tình yêu và hạnh phúc của cá nhân mình để đem lại sự bình yên cho bao người, đem lại hạnh phúc bé nhỏ cho người cha tội nghiệp, bất hạnh (suốt đời đau khổ vì không lấy được người mình yêu, suốt đời ân hận vì đã làm khổ cho một người không yêu mà phải lấy). Hành vi ấy, lối ứng xử đầy tính nhân văn, cao thượng ấy của Nàng Út khiến cho người đọc không chỉ xót thương nàng, mà còn rất cảm thông, yêu quí, kính trọng sự hy sinh đầy ý nghĩa của Nàng. Có lẽ vì thế chăng mà chàng Ba – từ chỗ: nỗi buồn đau thương nhớ người yêu như một quả núi "đè nặng, đè bẹp" cả trái tim và cơ thể chàng mỗi khi chàng đến chợ Khau Vai mà không gặp được nàng – đến chỗ: "lòng chàng đã thôi không còn nặng trĩu nữa", bởi chàng tin rằng: "Nàng ở trên trời cao" đã luôn nhìn thấy chàng, lòng chàng "như được sưởi ấm, như có một ngọn lửa vừa thắp lên"(11). Chàng đã hiểu và cảm nhận được thứ "tình yêu bất tử" của nàng giành cho chàng ở chính trong các đôi tình nhân đang quấn quýt bên nhau trong ngày Hội tình Khai Vai này.
Với cái kết không có mầu sắc u ám, đau thương, bế tắc ấy; Với cái nhìn dưới góc độ văn hóa (văn hóa ứng xử) – Chuyện tình Khau Vai thực sự không phải là câu chuyện về một bi kịch tình yêu, mà là một câu chuyện cảm động về một mối tình trong sáng, mãnh liệt đầy đắm say nhưng cũng đầy trắc trở - một mối tình dang dở nhưng rất đẹp của đôi trai gái vùng cao có nhân cách, có lối ứng xử văn hóa cao thượng, đáng trân trọng. Đồng thời đây cũng là một cách "giải mã" về một hiện tượng văn hóa, một phong tục mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đậm bản sắc văn hóa dân tộc vùng cao (phía Bắc) – đó là "Chợ tình Khau Vai", phiên chợ đặc biệt được tổ chức hàng năm "vào ngày Hai bẩy tháng Ba… phiên chợ dành cho những người yêu nhau mà không thể đến được với nhau, nhưng không bao giờ quên nhau"(12). Và đây có lẽ cũng là một phát hiện mới từ một góc nhìn mới về ý nghĩa của phong tục đẹp mới được hình thành trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi đây của tác giả cuốn tiểu thuyết này!
Như trên chúng tôi đã khẳng định: một trong những điều quan trọng góp phần tạo nên nét đặc sắc trong cuốn tiểu thuyết viết về tình yêu của đôi trai gái vùng cao này chính là việc nhà văn đã đặt câu chuyện tình đó trên cái "phông nền" văn hóa đậm sắc mầu dân tộc miền núi. Đó là bức tranh thiên nhiên với mầu xanh của núi rừng, với dòng sông, con suối; với những nương ngô trên núi đá, những ruộng lúa dưới thung lũng, những vườn rau cải, những nương đỗ tương, những cơn gió lạnh buốt từ khe núi… và dòng Nho Quế như sợi chỉ trắng ngoằn nghoèo giữa biêng biếc những ngọn núi lô xô từ trên cao nhìn xuống… Đó chỉ có thể là khung cảnh thiên nhiên vùng núi cao phía Bắc, nơi sinh sống của bao tộc người thiểu số (người Hmông, người Dao, người Giáy, người Tày, người Nùng…). Trong môi trường thiên nhiên hùng vĩ, hoang dã, khoáng đạt, đầy thơ mộng nhưng cũng đầy hiểm nguy, thách thức đối với con người ấy – những tộc người vùng cao đã dựng làng, dựng bản, đã dựa vào thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên và đã sống một cách hài hòa với thiên nhiên hùng vĩ, hoang dã và thơ mộng, đó. Cũng chính từ môi trường sống đặc biệt này, tính cách của những con người vùng cao cũng mang những nét đặc trưng riêng. Họ là những con người rất chất phác, thật thà, hồn nhiên, tự nhiên, ngay thẳng; Họ là những người rất khỏe mạnh, làm ruộng nương giỏi, săn bắn giỏi; nhưng đồng thời họ cũng là những người rất lãng mạn, tài hoa, mãnh liệt và quả cảm. Nắm bắt được bản chất, tính cách và tâm lý của những con người miền núi ấy, tác giả Nguyễn Thế Kỷ đã thể hiện một cách sinh động và đã rất thành công thế giới nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của mình. Đó là các nhân vật thuộc các tầng lớp khác nhau, các dân tộc thiểu số khác nhau, có tính cách, có số phận, có những suy nghĩ, những hành động, những lối ứng xử khác nhau trong cuộc sống thường ngày với những hoàn cảnh, những sự kiện cụ thể. Ngoài hai nhân vật chính là nàng Út và chàng Ba, là một loạt các nhân vật khác mà nhân vật nào cũng có những tính cách riêng, không ai giống ai. Điều đó tạo nên một thế giới nhân vật phong phú, với những cá tính, những đặc điểm riêng, sinh động và hấp dẫn.
Nàng Út và chàng Ba là hai nhân vật chính mà tác giả Nguyễn Thế Kỷ đã giành nhiều tâm huyết để khắc họa tính cách và phẩm chất tốt đẹp của đôi "trai tài, gái đẹp" này. Họ đích thực là tinh hoa của núi rừng, của bản làng vùng cao, đặc biệt là nhân vật Nàng Út: Nàng "càng lớn càng xinh đẹp, vừa giống cha, vừa giống mẹ, vừa có cái dữ dội, quyết liệt của bố"(13). Nàng là người mạnh mẽ (thích cưỡi ngựa và cưỡi ngựa rất giỏi); Nàng "chẳng biết sợ cái gì bao giờ. Bóng đêm, ma quỉ, côn trung, rắn rết, hổ báo,… Dường như không có một nỗi sợ hãi nào có thể chạm được đến Út"(14). Nhưng người con gái mạnh mẽ ấy cũng lại là một người con rất tình cảm, rất yêu thương cha mẹ của mình (nàng yêu quí bố nhưng lại rất hay chống lại, cãi lại bố khi không đồng ý với những điều bố nàng nói hay làm; nàng rất thương người mẹ luôn buồn bã héo hon vì không được chồng yêu và nàng: "rất sợ những giọt nước mắt của mẹ". Nàng vui tươi, nhí nhảnh hồn nhiên, bạo dạn… nhưng cũng rất dễ xúc động, mủi lòng và rất hay thở dài – cái "kiểu thở dài rất là buồn"(15) – như là một dấu hiệu, "một điềm báo trước" cho số phận không suôn sẻ, cho những nỗi bất hạnh đang chờ đợi ở phía trước cuộc đời nàng. Nàng là người rất mạnh dạn, chủ động trong tình yêu, đấu tranh quyết liệt để bảo vệ tình yêu, để được sống chết cùng người mình yêu; nhưng nàng cũng là một người sống ý thức, có trách nhiệm với cộng đồng, với những người thân yêu trong gia đình… nên đứng trước sự lựa chọn giữa tình yêu, hạnh phúc lứa đôi với sự khổ đau, bất hạnh vì bị "tan nhà, nát cửa" của bao người dân vô tội trong bản Pải Lủng, cùng với sự đau đớn đến tê dại của người cha vì vừa mất vợ, lại mất con – nàng đã quyết định hy sinh tình yêu, hạnh phúc của mình để trở về nhà, chấp nhận làm vợ Cố Sầu, chấp nhận cái chết để "nhường sự sống" cho đứa con trai bé bỏng – niềm vui sống cuối cùng của người cha Tộc trưởng người Giáy đáng thương của mình. Có thể thấy, qua ngòi bút của tác giả cuốn tiểu thuyết, nhân vật nàng Út đã hiện lên thật rõ nét, sinh động – với những nét phẩm chất, tính cách mang đậm chất dân tộc và miền núi. Hình ảnh của Nàng đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc với những tình cảm đan xen: vừa yêu mến, vừa xót xa thương cảm; vừa tiếc nuối, vừa nể trọng… và đã tạo nên một sự ám ảnh khôn nguôi về thân phận của những người phụ nữ dân tộc thiểu số vùng cao dưới chế độ phong kiến, tộc quyền xưa.
Nhân vật Tộc trưởng cũng là một nhân vật khá đặc biệt và đa tính cách. Đó là một Tộc trưởng Vương Vần Tráng mạnh mẽ, quyền uy, giầu có nhất vùng nhưng lại là một người sống lạnh lùng, cô đơn, khép kín lòng mình, cả một đời đau khổ, ân hận vì đã làm cho hai người phụ nữ xinh đẹp nhất hai bản: Pải Lủng (của người Nùng) và Ma Lé (của người Giáy) phải đau đớn, phiền muộn, mòn mỏi và cuối cùng đều "bỏ ông mà đi" – bởi: một người được ông yêu tha thiết nhưng ông buộc phải từ bỏ, không thể lấy về làm vợ (vì ông không dám làm trái lời dạy của tổ tiên, dòng tộc khi lấy một người thuộc dân tộc khác); một người không được ông yêu nhưng lại được ông cưới về làm vợ bởi bà đã quá yêu ông và có khả năng sinh cho ông những người con dân tộc Giáy "thuần khiết", không có sự lai tạp giống nòi). Còn đối với nàng Út, người con gái duy nhất của ông – ông vừa rất yêu thương, chiều chuộng con, nhưng ông lại cũng vừa cứng rắn, sắt đá với con (kiên quyết không cho con lấy người con trai dân tộc Nùng dù rất thương con; đã ép gả con cho một người thô tục, cục súc, tàn nhẫn… nhưng lại là kẻ thân tín của mình… vì muốn đảm bảo cho cái chức Tộc trưởng họ Vương – dân tộc Giáy không rơi vào tay người con trai dân tộc Nùng…). Một nhân vật khác – nhân vật Cố Sầu cũng là một nhân vật có tính cách phức tạp. Vốn là "người ăn kẻ ở" thân tín của Tộc trưởng, Cố Sầu có tài, có sức mạnh – nhưng cái tài, cái sức mạnh ấy lại là của một "con thú dũng mãnh đã thành tinh"(16). Ban đầu, khi còn dưới trướng Tộc trưởng, Cố Sầu thu mình vào như một kẻ "trung thành tuyệt đối" với Tộc trưởng, nhưng khi "vận may tới tay" (được Tộc trưởng gả con gái cho); và nhất là khi bị Nàng Út bỏ trốn trong đám cưới – hắn đã hiện nguyên hình là một kẻ tàn ác, nhỏ nhen và phản phúc (hắn cùng bọn đàn em định sát hại Tộc trưởng để cướp xe chở bạc nhưng không thành). Đây là một nhân vật đáng ghét, nhưng cũng đáng thương trong tác phẩm này. Cố Sầu chính là một kiểu người xấu, người ác trong cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng cao trong xã hội cũ.
Ngoài cảm hứng viết về thiên nhiên và con người vùng cao với những đặc điểm cùng những nét tính cách mang đậm chất dân tộc và miền núi, tác giả Nguyễn Thế Kỷ còn có cảm hứng viết về những phong tục tập quán cùng những nghi lễ quan trọng trong vòng đời của người dân tộc thiểu số (vùng phía Bắc Việt Nam). Miêu tả, phục dựng lại một cách sống động, chân thực những hoạt động văn hóa tinh thần (trong đó có cả những yếu tố văn hóa tâm linh) của cộng đồng các dân tộc thiểu số (ở đây là dân tộc Nùng và dân tộc Giáy) – đã chứng tỏ: Tác giả Nguyễn Thế Kỷ là một nhà văn có vốn hiểu biết khá sâu sắc, tường tận về bản sắc văn hóa tộc người vùng núi cao; đồng thời lại có sự yêu mến, trân trọng cùng niềm đam mê (nhất định) đối với việc nghiên cứu, tìm hiểu và tái hiện lại trong tác phẩm của mình những nét bản sắc văn hóa dân tộc đó.
Trong Tiểu thuyết Chuyện tình Khau Vai, theo thống kê của chúng tôi; đã có tới 10 lần xuất hiện những bài hát, tiếng hát dân ca (dân ca Nùng là chủ yếu) được cất lên từ tiếng hát của Nàng Út (trang 47, 70, 177,…); Từ trong lòng của chàng Ba (trang 236) trong tiếng sao của chàng Ba (trang 16). Trong văng vẳng từ khe sâu hay trong lòng đất cất lên (trang 14); Trong tiếng hát ru con của Mẹ chàng Ba (trang 40; Trong tiếng hát của em bé người Nùng đi chăn dê (trang 219); và trong điệu hát ngọt ngào, tha thiết… được cất lên từ chợ tình Khau Vai (trang 237)… Từng trong hoàn cảnh cụ thể, lời hát, giọng hát… được cất lên mang theo những trạng thái tình cảm khác nhau, những ý nghĩa khác nhau, thể hiện một cách đa dạng và sâu sắc thế giới tâm hồn, đời sống tình cảm… của những con người miền núi (rất chân thật, hồn nhiên… nhưng cũng rất tinh tế, lãng mạn và bay bổng). Trong cuốn tiểu thuyết của mình, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ cũng đã rất chú ý đến việc phản ánh các phong tục, tập tục, các nghi lễ mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao của cộng đồng các dân tộc thiểu số nơi đây. Đó là phong tục cưới xin, ma chay của người Nùng, người Giá; là tập tục sinh nở, là những qui định trở thành những nguyên tắc trong đời sống văn hóa tinh thần của các dòng họ, dòng tộc… trong các bản, làng miền núi. Đặc biệt, tác giả đã mô tả khá rõ nét, sinh động và cụ thể phong tục cưới xin của người Giáy, khiến cho người đọc cảm nhận được (thậm chí như được chứng kiến) cảnh một đám cưới với những qui định, những bước thực hiện với những nghi lễ… mang đậm bản sắc tộc người như: Trang phục rực rỡ của cô dâu người Giáy với "tấm khăn to, vuông… đỏ rực… Cô dâu đi đến đâu như có đốm lửa cháy lên ở đấy"; và cô dâu "phải trùm tấm khăn đỏ ấy lên đầu từ lúc bước ra khỏi cửa buồng đến lúc về tận nhà chồng mới được mở ra"(17); cùng với đó là bộ quần áo cô dâu được dệt, thêu cầu kỳ, rực rỡ (trong cả hàng năm ròng); là "đôi giầy vải xanh thêu hoa đào" được cô dâu dùng để đi đường, nhưng "khi đến nhà chồng phải giấu đi, để đi chân đất lên nhà chồng. Đôi giầy cô dâu phải mang về nhà mẹ đẻ"(18); Cô dâu "đeo một chiếc gương trước ngực, một cái túi đựng hành tỏi và ôm theo một con gà trống" (bởi "theo các bà thím bảo: cái gương để đuổi tà ma. Hành tỏi để có nhiều con cái. Còn gà thì để dẫn đường…"(19). Nhà trai đón dâu bằng ngựa, con ngựa "được tết bờm thành những búi tóc lẫn với những dải vải xanh đỏ vàng. Yên ngựa cũng được phủ vải đỏ"(20). Trong đám cưới "lũ thanh niên trai gái thi nhau hát hò rộn ràng vui vẻ. Rượu rót tràn các chén. Lũ thanh niên nhà trai phải uống hết một dãy mấy chục bát rượu xếp đầy mặt bàn ngay từ đầu ngõ. Bà mối lại phải mang bao lì xì đến mừng tuổi hết lượt. Vẫn chưa xong, uống rượu rồi, lì xì rồi, còn phải hát nữa. Hát đến khi nào nhà gái cho vào mới được vào"(21)...
Có thể thấy, tác giả là một người có sự hiểu biết sâu sắc, cụ thể và có cảm hứng thực sự khi viết mô tả về các nghi lễ, nghi thức trong đám cưới của người dân tộc thiểu số (ở đây là dân tộc Giáy). Điều này đã góp phần tạo ra sự thú vị, sự mới lạ, sự hấp dẫn cho người đọc.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn văn hóa (của một người có tầm văn hóa), tác giả Nguyễn Thế Kỷ không chỉ ca ngợi một chiều về những nét đẹp của văn hóa phong tục các dân tộc thiểu số - mà bên cạnh đó, tác giả cũng đã thể hiện khá rõ quan điểm phê phán và thái độ không đồng tình của mình đối với những tập tục mang tính hủ tục trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng cũng như của các dòng tộc trong các cộng đồng dân tộc đó. Bởi theo tác giả, chính những hủ tục đó nhiều khi đã trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn tới những khổ đau, bất hạnh, dẫn tới những bi kịch trong tình yêu cũng như trong hạnh phúc gia đình – nhất là đối với thân phận của những người phụ nữ dân tộc thiểu số. Cuộc đời đầy nỗi buồn đau, đầy cô đơn và cuối cùng là dẫn tới cái chết buồn thảm của bà Tộc trưởng (mẹ Nàng Út); Cuộc đời đầy nỗi hận, nỗi căm ghét nhưng vẫn luôn xót xa không thể nào quên được người yêu với mối tình đầu tiên "như một vết thương, đã lành rồi nhưng vẫn âm ỉ nhứng nhối bên trong vết sẹo"(22) của người phụ nữ Nùng xinh đẹp cùng với cái chết tức tưởi trong "cơn sốt đã thiêu đốt những hơi thở cuối cùng của bà" – khi biết được một sự thật phũ phàng: Con trai của bà đã đem lòng yêu và quyết lấy con gái của kẻ đã bỏ bà mà đi chỉ bởi như những suy nghĩ ở trong ông: không thể "cứ thương nhau là lấy nhau rồi pha tạp dòng máu bao đời. Thì mai này, làm gì còn giống Giáy hay Nùng" nữa; "Con ma trong nhà, mỗi sắc tộc mỗi riêng. Từ ngàn đời nay vạn vật vẫn như thế mà trường tồn. Nay làm trái lệ ắt là khởi đầu cho thảm họa"(23). Cũng chính xuất phát từ cái tập tục mang tính hủ tục đó đã khiến cho bản thân ông Tộc trưởng cũng phải gánh chịu nỗi bất hạnh khủng khiếp: cả hai người đàn bà yêu ông đều "đã bỏ ông đi" vĩnh viễn; con gái ông cũng phải từ bỏ hạnh phúc lứa đôi để sống trong "địa ngục gia đình" với một kẻ thô tục, xấu xa, và cũng "từ bỏ ông" ra đi mãi mãi! Ông trở thành nạn nhân của chính mình, của cái tập tục mà ông quyết khư khư giữ lấy đến cùng.
Có thể thấy – đây là một thái độ, một quan điểm đúng đắn, vừa mang ý nghĩa phê phán, vừa giầu tính nhân đạo của tác giả cuốn tiểu thuyết này.
Có một điểm nữa mà chúng tôi không thể không nhắc đến khi tiếp cận cuốn tiểu thuyết này. Đó là đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả. Có lẽ - do là một nhà ngôn ngữ học – mà ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm Chuyện tình Khau Vai của tác giả Nguyễn Thế Kỷ mang những đặc điểm riêng với một phong cách riêng: Trước hết, dễ nhận thấy – đó là một thứ ngôn ngữ ngắn gọn, giầu sức gợi (hơn sức tả); vì thế ít có những câu văn dài, những đoạn tả lê thê với giọng điệu lâm ly, thống thiết (cho dù đây là một câu chuyện tình dang dowr đầy nỗi buồn). Trong tác phẩm xuất hiện nhiều đoạn đối thoại, lời đối thoại ngắn, gọn, diễn đạt đúng với cách nghĩ, cách cảm, và cách nói của người dân tộc thiểu số với nhau (không có độ khéo léo, cầu kỳ, văn hoa trong cách diễn đạt). Điều thú vị là: tác giả đã sử dụng những từ ngữ, những hình ảnh, những cách nói… rất phù hợp với lối tư duy, lối diễn đạt của người miền núi, nhưng lại không sa vào cách nói "bắt chước" (hay còn gọi là "nhại tiếng") người dân tộc thiểu số. Tác giả không dùng các từ như: "lố, lá, zầy, zà, A lúi, cái tao, cái mày,…" (như một số tác giả người Kinh khi viết về người dân tộc thiểu số) – mà ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm vẫn rất đậm sắc mầu dân tộc, miền núi, thể hiện rất rõ tâm hồn, tính cách, cách cảm và lối nghĩ, lối nói của người dân tộc thiểu số. Ví dụ như một số đoạn văn sau chẳng hạn:
- "Cậu phải cởi dây buộc trong này đi, thì mới sống tiếp được. Vừa nói ông vừa chỉ tay vào bụng Ba. Ba không nhìn ông khẽ nói: - Ông có nhìn thấy gì đâu mà lại bầy cho tôi phải làm gì. Ông già: - Nghe tiếng sao thì biết thôi"(24);
- "Nỗi buồn đang trú ngụ trong cơ thể Ba. Nếu cố gắng thì cũng có thể cất nó đi, nhưng thường thì nó luôn thức, ngay cả khi Ba ngủ. Khi Ba thức, nó ở trên đỉnh đầu, khi Ba ngủ, nó ở ngay trên ngực. Nó đè bẹp Ba xuống sàn, nó khiến Ba mỏng dính đi, mỏng tới mức có thể trải rộng ra như một tấm chăn. Một tấm chăn cũ, lạnh lẽo, thủng vài chỗ…"(25).
- "Lòng dạ Út từ khi có Ba, lúc nào cũng tưng bừng như một con chim vừa biết bay nên luôn tìm lý do để bay mải miết vào bầu trời xanh biếc"(26).
- "Hôm nay, Cố Sầu tao tuyên bố, không tìm thấy vợ không làm người, không giết được thằng Nùng kia không làm người"(27).
- "Mày đi tìm vợ, tìm thấy thì mang về, không thấy thì đi tìm chỗ khác. Vợ mày nó có chân nó tự chạy, đâu phải người ta bắt mang đi…"(28).
Có thể thấy rõ: ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn đã góp phần không nhỏ vào việc khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên, bức tranh về cuộc sống con người dân tộc miền núi, vừa chân thực, giản dị, vừa sống động; vừa giầu tính hiện thực, vừa giầu chất nhân văn.
Viết về đề tài dân tộc và miền núi không phải là điều mới mẻ đối với các nhà văn người dân tộc Kinh. Mỗi một tác giả - với mỗi góc nhìn khác nhau, với những cảm hứng khác nhau – các nhà văn dân tộc Kinh đã có những đóng góp không nhỏ (bên cạnh các nhà văn người dân tộc thiểu số) vào sự phát triển ngày càng đa dạng, phong phú hơn bộ phận văn học đặc biệt, đậm bản sắc văn hóa tộc người này trong đời sống văn học nước nhà thời kỳ hiện đại và hội nhập hiện nay. Với tiểu thuyết Chuyện tình Khau Vai, tác giả Nguyễn Thế Kỷ - dưới góc nhìn văn hóa đã đem đến cho chúng ta một tác phẩm văn chương đẹp, giầu ý nghĩa, giầu bản sắc văn hóa dân tộc, và đã làm xúc động lòng người bởi những giá trị nhân văn sâu sắc được toát ra từ câu chuyện tình yêu của đôi trai gái người dân tộc thiểu số vùng cao này.
(1) Trang 36, Chuyện tình Khau Vai (Nguyễn Thế Kỷ), Nxb Văn học, 2019.
(2) Trang 37 (sách đã dẫn).
(3) Trang 16 (sách đã dẫn)
(4) Trang 77 (sách đã dẫn)
(5) Trang 118 (sách đã dẫn)
(6) Trang 169 (sách đã dẫn)
(7) Trang 195 (sách đã dẫn)
(8) Trang 200 (sách đã dẫn)
(9) Trang 223 (sách đã dẫn)
(10) Trang 231 (sách đã dẫn)
(11) Trang 236 (sách đã dẫn).
(12) Trang 237 (sách đã dẫn).
(13) Trang 59 (sách đã dẫn).
(14) Trang 73 (sách đã dẫn).
(15) Trang 70 (sách đã dẫn).
(16) Trang 129 (sách đã dẫn).
(17) Trang 152 (sách đã dẫn).
(18) Trang 153 (sách đã dẫn).
(19) Trang 154 (sách đã dẫn).
(20) Trang 155 (sách đã dẫn).
(21) Trang 153, 154 (sách đã dẫn).
(22) Trang 89 (sách đã dẫn).
(23) Trang 120, 121 (sách đã dẫn).
(24) Trang 16, 17 (sách đã dẫn).
(25) Trang 18 (sách đã dẫn).
(26) Trang 46 (sách đã dẫn).
(27) Trang 184 (sách đã dẫn).
(28) Trang 186 (sách đã dẫn).
Trong tháng 9/2020, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức các Trại sáng tác tại các Nhà sáng tác trực thuộc trung tâm.
DANH SÁCH CÁC TRẠI DIỄN RA TRONG THÁNG 9 NĂM 2020
| STT | Tên Hội VHNT | Địa điểm | Khai mạc | Bế mạc |
| TRẠI THƯỜNG NIÊN | ||||
| 1 | Hội văn học nghệ thuật Nam Định | Nha Trang | 05/09 | 14/09 |
| 2 | Hội văn học nghệ thuật Lâm Đồng | Tam Đảo | 03/09 | 17/09 |
| 3 | Hãng phim Hoạt hình Việt Nam | Tam Đảo | 24/09 | 08/10 |
| 4 | Hội Nghệ sỹ sân khấu Hà Nội | Đại Lải | 03/09 | 17/09 |
| 5 | Hội Văn học nghệ thuật Bình Định | Đại Lải | 19/09 | 03/10 |
| TRẠI CHUYÊN SÂU | ||||
| 1 | Nghệ sỹ nhân dân Huy Quang | Nha Trang | 16/09 | 30/09 |
I. Nhà sáng tác Tam Đảo:
| STT | Họ và tên văn nghệ sỹ | Giới tính | Chuyên ngành | Năm sinh | Dân tộc |
| 1 | Nguyễn Chí Long | Nam | Văn học | 1944 | Kinh |
| 2 | Nguyễn Thượng Thiêm | Nam | Văn học | 1949 | Kinh |
| 3 | Lương Nguyên Minh | Nam | Mỹ thuật | 1959 | Kinh |
| 4 | Phan Hữu Giản | Nam | Văn học | 1941 | Kinh |
| 5 |
Đỗ Thị Nguyệt (Minh Nguyệt) |
Nữ | Văn học | 1968 | Kinh |
| 6 | Vi Quốc Hiệp | Nam | Mỹ thuật | 1959 | Tày |
| 7 | Tạ Thị Ngọc Hiền | Nữ | Văn học | 1954 | Kinh |
| 8 | Phạm Ngọc Thanh | Nam | Nhiếp ảnh | 1960 | Kinh |
| 9 | Huỳnh Thanh Tâm (Túy Tâm) | Nam | Văn học | 1953 | Kinh |
| 10 | Hoàng Thị Thanh Thủy (Thủy Tiên) | Nữ | Văn học | 1969 | Kinh |
| 11 | Nguyễn Thị Bé | Nữ | Văn học | 1947 | Kinh |
| 12 | Lê Phú Tiềm (Phú Đại Tiềm) | Nam | Văn học | 1942 | Kinh |
| 13 | Nguyễn Minh Thu | Nam | Âm nhạc | 1981 | Kinh |
| 14 | Nguyễn Thị Phương Liên | Nữ | Văn học | 1953 | Kinh |
| 15 | Dương Lễ | Nam | Văn học | 1948 | Kinh |
| STT | Họ và tên văn nghệ sỹ | Chuyên ngành | Năm sinh | Dân tộc | Giới tính |
| 1 | Nguyễn Thị Thu Ngân | Điện ảnh | 1970 | Kinh | Nữ |
| 2 | Đỗ Thị Mai | Điện ảnh | 1991 | Kinh | Nữ |
| 3 | Dương Thị Phương | Điện ảnh | 1995 | Kinh | Nữ |
| 4 | Trần Thị Thanh Tâm | Điện ảnh | 1996 | Kinh | Nữ |
| 5 | Nguyễn Thị Phương Thảo | Điện ảnh | 1999 | Kinh | Nữ |
| 6 | Nguyễn Hạnh Phước An | Điện ảnh | 1987 | Kinh | Nữ |
| 7 | Đoàn Thị Trang Hương | Điện ảnh | 1990 | Kinh | Nữ |
| 8 | Đinh Thùy Hương | Điện ảnh | 1982 | Mường | Nữ |
| 9 | Trần Thị Hồng Yến | Điện ảnh | 1963 | Kinh | Nữ |
| 10 | Tô Thanh Hà | Điện ảnh | 1999 | Kinh | Nữ |
| 11 | Trần Kim Khôi | Điện ảnh | 1983 | Kinh | Nam |
| 12 | Dương Thị Bích Ngọc | Điện ảnh | 1981 | Kinh | Nữ |
| 13 | Nguyễn Thị Khánh Ly | Điện ảnh | 1978 | Kinh | Nữ |
| 14 | Bùi Thị Hoài Thu | Điện ảnh | 1976 | Kinh | Nữ |
| 15 | Phạm Thị Thanh Hà | Điện ảnh | 1976 | Kinh | Nữ |
II. Nhà sáng tác Đại Lải:
| STT | Họ và tên văn nghệ sỹ | Giới tính | Chuyên ngành | Năm sinh | Dân tộc |
| 1 | Nguyễn Ngọc Thụ | Nam | Sân khấu | 1946 | Kinh |
| 2 | Nguyễn Giang Phong | Nam | Sân khấu | 1944 | Kinh |
| 3 | Trịnh Quang Khanh | Nam | Sân khấu | 1941 | Kinh |
| 4 | Trần Trí Trắc | Nam | Sân khấu | 1943 | Kinh |
| 5 | Nguyễn Thị Lệ Dung | Nữ | Sân khấu | 1948 | Kinh |
| 6 | Phạm Thanh Liễu | Nữ | Sân khấu | 1946 | Kinh |
| 7 | Đỗ An Ninh | Nam | Sân khấu | 1957 | Kinh |
| 8 | Hoàng Thanh Du | Nam | Sân khấu | 1960 | Kinh |
| 9 | Nguyễn Hiếu | Nam | Sân khấu | 1949 | Kinh |
| 10 | Trần Chỉnh | Nam | Sân khấu | 1953 | Kinh |
| 11 | Nguyễn Thị Vân Kim | Nữ | Sân khấu | 1948 | Kinh |
| 12 | Phạm Hữu Huề | Nam | Sân khấu | 1948 | Kinh |
| 13 | Hoàng Đức Nhuận | Nam | Sân khấu | 1945 | Kinh |
| 14 | Lê Quý Hiền | Nam | Sân khấu | 1953 | Kinh |
| 15 | Nguyễn Đăng Tiến | Nam | Sân khấu | 1952 | Kinh |
| STT | Họ và tên văn nghệ sỹ | Giới tính | Địa chỉ | Năm sinh | Dân tộc |
| 1 |
Nguyễn Văn Hùng (Xuân Hùng) |
Nam | Hà Nội | 1981 | Kinh |
| 2 | Nguyễn Thanh Hương | Nam | Lâm Đồng | 1956 | Kinh |
| 3 | Đặng Duy Lưu | Nam | Lâm Đồng | 1963 | Kinh |
| 4 | Nguyễn Thanh Hoàng | Nam | Bình Phước | 1963 | Kinh |
| 5 | Vương Thị Thu Thuỷ | Nữ | Bình Phước | 1963 | Kinh |
| 6 | Hà Đình Cẩn | Nam | TP.HCM | 1950 | Kinh |
| 7 |
Châu La Việt (Lê Khánh Hoài) |
Nam | TP.HCM | 1954 | Kinh |
| 8 | Nguyễn Ngọc Mộc | Nam | TP.HCM | 1954 | Kinh |
| 9 |
Trần Đăng Xuyền (Trần Đăng Suyền) |
Nam | Hà Nội | 1954 | Kinh |
| 10 | Bùi Việt Thắng | Nam | Hà Nội | 1956 | Kinh |
| 11 | Hà Phạm Phú | Nam | Hà Nội | 1957 | Kinh |
| 12 |
Phùng Phương Quý (Phùng Đức Hùng) |
Nam | Tây Ninh | 1964 | Kinh |
| 13 | Hoàng Quý | Nam | Vũng Tàu | 1950 | Kinh |
| 14 | Phạm Vân Anh | Nữ | Biên Phòng | 1976 | Kinh |
| 15 | Lữ Thị Mai | Nữ | Báo Nhân dân | 1988 | Kinh |
III. Nhà sáng tác Nha Trang:
| STT | Họ và tên văn nghệ sỹ | Chuyên ngành | Năm sinh | Dân tộc |
| 1 | Nghệ sỹ nhân dân Huy Quang | Văn học | Kinh |
| STT | Họ và tên văn nghệ sỹ | Giới tính | Chuyên ngành | Năm sinh | Dân tộc |
| 1 | Nguyễn Công Thành | Nam | Văn học | 1955 | Kinh |
| 2 | Vũ Xuân Dương | Nam | Mỹ thuật | 1956 | Kinh |
| 3 | Nguyễn Văn Bổng | Nam | Văn học | 1951 | Kinh |
| 4 | Phạm Hồng Loan | Nữ | Văn học | 1962 | Kinh |
| 5 | Ngô Xuân Thanh | Nam | Văn học | 1950 | Kinh |
| 6 | Trần Thị Bích Liên | Nữ | Văn học | 1956 | Kinh |
| 7 | Nguyễn Văn Nhượng | Nam | Văn học | 1980 | Kinh |
| 8 | Trịnh Thị Nga | Nữ | Văn học | 1964 | Kinh |
| 9 | Đỗ Thanh Liêm | Nam | Mỹ thuật | 1980 | Kinh |
| 10 | Vũ Tuấn Việt | Nam | Mỹ thuật | 1992 | Kinh |
| 11 | Ninh Quốc Vụ | Nam | Âm nhạc - Múa | 1947 | Kinh |
| 12 | Mai Anh | Nam | Âm nhạc - Múa | 1963 | Kinh |
| 13 | Nguyễn Ngọc Quang | Nam | Nhiếp ảnh | 1960 | Kinh |
| 14 | Trần Duy Cát | Nam | Nhiếp ảnh | 1953 | Kinh |
| 15 | Phạm Khải Hoàn | Nam | Sân khấu | 1949 | Kinh |
| 16 | Vũ Quỳnh Lụa | Nữ | Sân khấu | 1972 | Kinh |
| 17 | Trần Văn Sản | Nam | Nhiếp ảnh | 1963 | Kinh |
| 18 | Phan Thị An Ninh | Nữ | Nhiếp ảnh | 1971 | Kinh |
| 19 | Trần Đình Khoa | Nam | Nhiếp ảnh | 1973 | Kinh |
| 20 | Nguyễn Phương Thảo | Nữ | Mỹ thuật | 1995 | Kinh |
| 21 | Mai Thanh | Nam | Văn học | 1947 | Kinh |
Chùm thơ của Nông Thị Ngọc Hoà – Hội văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 7/2020
******
Tác giả Bàng Ái Thơ – Hội văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 7/2020
HẸN TÌNH
Vừa con mắt ưng rồi thì cậy mối
Rời non cao xuống chợ tỏ lòng ta
Đàn môi lựa cất lời da diết
Bạn tình ơi sao chẳng thiết tha
Cô gái miết chân nát cỏ lơ
Đào xuân vương cánh theo gió mơ
Lòng thì đã thương nhau nhiều thế
Xong nghĩa vụ đi, em đợi chờ
Biên giới người mình đã yên đâu
Đi mà giữ nước chí trai cao
Người Mông cái bụng mong yên ổn
Xong nghĩa vụ rồi "kéo tay" sau
Thương nhau nhiều lắm chớ nghi đâu
Trăng ngả khuất non sương lạnh thâu
Đã cùng ước hẹn lòng cùng hiểu
Đằm thắm người trai tặng khăn mầu
Cùng nắm tay nhau rời phiên chợ
Đàn môi thủ thỉ nẩy điệu tình
Rừng thông hôm ấy xanh ngăn ngắt
Cùng những vì sao đón bình minh !
Truyện ngắn của Minh Hằng – Hội văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam – sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 7/2020
KHOẢNG TRỜI CỐM ĐỎ
Bà Hiền dọn nhà rõ sớm. Chẹp. Có việc gì đâu. Tết hay không tết cũng cho mình hít mình thở chứ cho ai. Bà túm tóc ngoe nguẩy, bịt khẩu trang, đeo kính bảo hộ nom như đi móc cống. Gớm, nhà đóng cửa suốt mà bụi dày cộp ra. Tóc rụng hàng cuộn chui tít gậm ghế thế này. Chỗ của mày trên đầu tao, rủ nhau xuống đấy làm gì tóc ơi. Túi vỏ thuốc dễ hơn cân. Toàn hạ huyết áp. Sang năm xin sổ phát thuốc tiểu đường nữa. Hôm trước đi khám bác sĩ nhắc rồi. Ối, ối cái lưng, ngồi xuống không muốn đứng lên. Ôi chà…
Bà thì thào chuyện với mình. Thi thoảng bà nhìn nhanh căn phòng giữa nhà. Cái khóa đen ngoạp chắc vào ngạnh cửa, bà sập thật nhanh rồi giấu cái chìa khóa vào hốc tủ kia, tròn năm rồi. Lạy ông. Năm cùng tháng hết, ông cho tôi quét tước, dọn dẹp nhá.
Ngoài nhà tinh tươm. Mấy cái gối tựa trơ thớ vải thơm mùi xà phòng xếp gọn góc sa lông. Chỗ nằm của bà Hiền giờ ở đây. Đệm mút êm vừa vặn, đỡ cái lưng gầy lăn qua lăn lại. Ti-vi trước mặt, vừa xem vừa gà gật. Đêm dăm lần dậy đi tiểu vài bước vào chỗ vệ sinh chả phải bật đèn. Tháng này bà đỡ vài chục tiền điện, đập xoẳn số thuốc bổ huyết dưỡng não. Cái đồng hồ quà doanh nghiệp tặng ông mấy chục năm vẫn báo giờ chính xác. Nó sống dai hơn người. Ba cái ảnh cưới của thằng Nam khung vàng chói. Vợ chồng nó giờ chỉ cười với nhau trong ảnh. Hai cái nồi quấy bột của thằng cò, bà dùng nấu canh, om đậu. Món đậu cà chua ghét cay đắng thời trẻ giờ ngày nào bà chả ăn.
Bà Hiền hít một hơi đưa ô-xi sâu tít góc phổi. Bà lùa tay hốc tủ, thầm mong không thấy cái gì trong ấy. Nhưng tay bà chạm ngay vào một vật lạnh buốt. Bà đành cầm nó ra. Cái chìa khóa. Nó nằm trong ví ông mấy chục năm. Nó câm nín như lá bùa. Bí hiểm như người tình. Nghiêm trọng như lương bổng. Bà lật đi lật lại, nhìn nó thôi miên. Vẫn thế, trắng phớ, vênh vỉa. Mày được ông ấy yêu. Hơi ấm ông ấy bủa chặt thân hình mày. Giờ mày nằm trong tay tao. Đừng cố cựa. Răng mày cùn như răng tao. Chả làm tao đau nữa. Ờ đấy, tao ghen với mày. Tao cậy tay ông ấy chiếm mày, van ông ấy trao mày. Tao đập đầu vào tường, vết máu thâm xịt đây. Nhưng tao thua, mày biết tao vẫn kể. Này, cái mặt sắt kia. Tao vứt mày vào chỗ quên, mà không thể quên. Thôi đành.
Bà Hiền hít thêm hơi thật căng, dồn quyết tâm vào đầu ngón chân, tiến đến căn phòng giữa nhà. Chân bà có người ôm ghì xuống, nặng chịch. Lạy ông. Cho tôi vào nhé. Thế giới này cao siêu, kỳ bí lắm, người trần mắt thịt như tôi không hiểu. Nhưng tôi là vợ ông. Tôi kệ xác thế giới của ông.
Vung tay giận dữ, bà tra khóa. Két két, bỏ tay tôi ra. Ông có cầm cái gì nặng hơn cây bút đâu mà đấu tay tôi. Phải, nó thô xước cộm còm, nó run bấy, nhưng vẫn chắc như chão.
***
Đêm mượt trắng và nhấp nhô. Chiếc giường tân hôn gỗ tạp rung xiết cùng nhịp với thớ thịt cuộn căng của cặp vợ chồng trẻ. Anh Thảo ngủ thỉu trên ngực vợ. Chị Hiền nâng mặt chồng, đặt nhẹ nụ hôn lên khóe miệng cong vành trăng, nghiêng người để anh từ từ nằm xuống bên cạnh. Chị khẽ trở dậy, vo gạo thổi cơm, luộc quả trứng bồi dưỡng riêng cho chồng.
Vợ chồng chị dạy cùng trường cấp ba, cùng môn văn. Lúc đón dâu hôm qua chị nghe loáng thoáng có người bảo chị số may, lấy được chồng giỏi. Anh có tay luyện đội tuyển thi văn quốc gia, con “át chủ bài” để trường mở “lò” luyện thi. Tên anh đọc lên chỗ nào, học trò ghi danh theo học ầm ầm.
Nửa đêm anh choàng tỉnh ngồi sững trên giường. Chị pha nước chanh cho anh uống rồi xuống nhà nấu mì mang lên. Anh đã ngồi vào bàn, cắm cúi viết. Ngẩng đôi mắt hoang vu, anh phẩy tay bảo chị mang bát mì ra ngoài. Từ hôm đó, thế giới của anh chia cắt chị bằng cánh cửa luôn đóng từ bên trong. Nước mắt chị đẫm mòn đôi gối cưới thơm mùi vải mới. Bữa ăn anh nói liên tục. Những cái tên và cuộc đời trong tay anh. Yêu. Uất hận. Cay cú. Sung sướng. Làm tình. Giết. Chết. Hồi sinh. “Nhân vật của tôi ăn uống, khóc cười, tôi phải nuôi họ. Không có tôi họ sẽ chết”. “Họ có giống âm binh của thầy cúng không? Anh có sai khiến được họ làm cho gia đình mình hạnh phúc không?”. “Âm binh? Ha ha. Hay. Hay”. Anh lâng lâng vào phòng. Tiếng ổ khóa sập vào tim chị. Anh nhìn chếch trên đầu chị mỗi khi chạm nhau. Nếu nhìn thấp chút nữa, anh sẽ thấy đôi mắt oán hờn. Thấp chút nữa, anh sẽ thấy bụng vợ to dần. Thấp chút nữa, anh sẽ thấy thằng bé bò trên nền nhà mút tay cáu bẩn. Nhưng anh chỉ nhìn lên, cao lên, cao lên nữa.
***
Bà Hiền mở mắt. Trời tối từ lúc nào. Tay bà nặng trĩu, đau nhức. Ánh điện mệt mỏi hắt vào những cuốn sách nặng trịch. “Âm binh”. “Thầy cúng”. “Hồi sinh”. “Máu hận”… Những cái tên bà nghe từ căn phòng này vọng ra khi ông đàm đạo văn chương. Mấy cháu sinh viên làm luận văn cung kính nghe ông nói cả buổi, sẽ sàng để lại túi hoa quả rẻ tiền góc bàn ăn trước khi ra về. Thế giới nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Phương pháp miêu tả tâm lý. Thân phận phụ nữ. Cái nhìn xuyên thời gian. Tầm vóc vĩ đại của thế kỷ. Hậu hiện đại. Chủ nghĩa cấu trúc… Những khối chữ chắc nịch lọt khe cửa mọt, bà tẩm nước mắm hành mỡ đảo thơm cùng chút rau cuối chợ. Thằng Nam mặt dày trứng cá trừng trừng nhìn cánh cửa giữa nhà. Im lìm. Bản lĩnh. Ma quái. Khinh bỉ. Khuôn mặt chữ nhật vênh váo lừng lững nhìn lại. Vài lần hiếm hoi, cánh cửa mở rộng để đón những chồng sách thơm phức. Ông giang hai tay ôm lấy, xoa từng cuốn, hôn lên đám nhân vật nhốn nháo quanh ông. Lụ khụ, trai tơ, hoa hậu, tướng cướp, lắm lời, dịu nhẹ, thâm trầm, khốn khổ, sang trọng… Cánh cửa mở rộng lần cuối hai năm trước. Bà nâng ông khỏi chiếc bàn kia, vắt tấm áo mòn trơ vải ống tay rơi dưới chân lên lưng ghế. Ông cố nhướn mắt nhìn lũ con cái mơn mởn trắng tinh sột soạt xúm quanh ông, thở “phì” một hơi tuyệt vọng, bàn tay lỏng khỏng xòa buông lủng lẳng trong tiếng khóc rống của bà.
Nhặt chiếc chổi lông gà, bà Hiền dướn người phất nhẹ lên những cuốn sách cao nhất. Phân mối tung trắng đầu. Đám gặm nhấm tinh ranh đào hào xuyên tường đến chỗ sách này. Bà lo lắng cầm từng cuốn lên xem xét. Dừng ngay. Cấm sờ vào chúng. Tiếng rít như răng mối nghiến giường cưới đêm đêm xói vào tai bà. Ông có muốn tôi cứu sách không, hay để thành đống phân? Bà ghê gớm không ngờ. Bà lấy cán chổi gõ mạnh vào hàng bìa sách cứng đơ, lũ mối chạy túa ra đen kịt. Cốp. Cốp. Chúng mày dám ăn chữ của chồng bà này. Vút. Đốp. Ối giời ơi. Cán chổi xoay ngược đập vào đầu bà. Ông giỏi, đánh vợ kia à. Bà cười khanh khách. Thử xem, thân già này chẳng sợ nhá. Chổi lông bứt khỏi tay bà, quay tít. Bà chạy theo chộp lấy. Quét. Đập. Giật. Hể hả. Xông xáo. Bà lao đến chỗ bàn viết. Bản thảo tung từng trang, giấy bay, mực bay mờ tịt. Múa chiếc chổi lông như đấu kiếm, bà quơ lên mặt những bằng khen, giải thưởng treo ngàn ngạt kín các bức tường. “Ha ha. Ha ha”. Bà tiến lui, nhảy lên, lùi xuống. Chổi lông quật qua quật lại. Đám bụi xam xám sợ sệt co quẩn góc phòng, buông xuôi, tã tượi.
***
Chiếc ô tô to kềnh đỗ trước cửa. Hai thanh niên nhanh nhẹn lôi ra hàng chục bao tải dứa. Anh Nam bảo chúng cháu cho sách vào đây mang về cho anh ấy ạ. Bà Hiền nhanh nhẹn mở căn phòng giữa nhà. Ổ khóa trơn tuột. Cánh cửa nhẹ tênh. Hai thanh niên ùa vào. Chúng há hốc mồm nhìn hàng nghìn cuốn sách ngất ngưởng uy nghi.
Những cuốn sách tề chỉnh trắng toát và lạnh ngắt.
Bà Hiền gục xuống, không kịp nhìn thấy cơn lốc xám dìu núi tàn tro bay vút lên khoảng trời cốm đỏ.
Thơ của Nguyễn Linh Ngọc – Hội văn học nghệ thuật Quảng Trị - sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 7/2020.
YÊU MÃI NGÀNH Y
Có giọt lệ nào rơi
Trong cơn mưa chiều tháng bảy
Sao giữa ngày hè nắng như lửa cháy
Mà mù sương Covid lại dội về
Đà Nẵng ơi ta vẫn lắng nghe
Từng chút buồn vui tin về từ nơi ấy
Có gì nôn nao
sông Hàn sóng dậy
Thành phố bây giờ vào trận mới đấy thôi
Cả nước sẻ chia cùng tiếp sức rồi
Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã về bên Đà Nẵng
Ôi đẹp lắm những thiên thần áo trắng
Tổ Quốc sinh tồn người lặng lẽ hy sinh
Xả tóc cách ly cống hiến hết mình
Tạm xa những người thân để bước vào trận mới
Mỗi sự hồi sinh triệu người mong đợi
Rất đỗi tự hào yêu mãi ngành y.
Từ 28/7 đến 3/8/2020, Hội nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội với sự hỗ trợ của Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật đã tổ chức thành công Trại sáng tác ảnh nghệ thuật 2020 tại Nhà sáng tác Đại Lải.
Trại sáng tác diễn ra trong khoảng thời gian không dài, nhưng được xem là cơ hội quý giá để các hội viên giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và thỏa sức sáng tạo. Hoạt động này nhằm góp phần thúc đẩy phong trào, nâng cao chất lượng sáng tác ảnh nghệ thuật của Hà Nội, tiếp tục khẳng định vai trò của nhiếp ảnh trong đời sống văn hoá nghệ thuật tại Hà Nội.

30 hội viên thuộc Hội Nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội với tuổi đời, tuổi nghề khác nhau nhưng chung một niềm đam mê sáng tác đã thúc đẩy họ tụ hội về Nhà sáng tác Đại Lải bên hồ thơ mộng để cùng nhau sáng tạo, phát huy tài năng. Bên cạnh những nghệ sỹ nhiếp ảnh gạo cội trong khu vực, trại sáng tác còn chào đón nhiều tay máy trẻ.
Ban tổ chức Trại sáng tác đã đưa các trại viên về thăm những thắng cảnh, những miền quê của tỉnh Vĩnh Phúc để khám phá, lưu giữ vào ống kính nhịp sống, cảnh vật cũng như con người Vĩnh Phúc, giúp các trại viên có được nhiều cảm hứng, ý tưởng sáng tạo. Phong cảnh, con người Vĩnh Phúc qua lăng kính của các tác giả đã được thể hiện rất chân thực, sinh động. Ngoài việc đi thực tế sáng tác, các trại viên còn được Hội nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội tập huấn một số chuyên đề như: Ảnh trắng đen; Tạo hình trong ảnh nghệ thuật; Phương pháp phát hiện đề tài và trình bày một tác phẩm ảnh nghệ thuật... Đặc biệt, các trại viên phải nộp tác phẩm cho Ban tổ chức thảo luận đánh giá, nhận xét về chuyên môn, kỹ thuật để rút kinh nghiệm cho những lần sáng tác sắp tới.

Phát biểu tại buổi bế mạc Trại sáng tác, bà Tuyết Minh – Phó chủ tịch Hội nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội đã biểu dương tinh thần hăng say, niềm đam mê và thái độ nghiêm túc của các trại viên dự trại sáng tác. Nhờ vào đó, trại sáng tác đã đạt được nhiều thành công. Các tác phẩm nhiếp ảnh đã ghi nhận lại vẻ đẹp của thiên nhiên, sự nỗ lực, vươn lên của con người trên vùng đất Vĩnh Phúc tươi đẹp. Thông qua đó tạo ra nhiều tác phẩm ảnh chất lượng, có giá trị cao góp phần nâng cao vị thế nhiếp ảnh đối với đời sống xã hội.
Ông Nguyễn Thạch Tâm – Phó Giám đốc Nhà sáng tác Đại Lải cũng thay mặt toàn thể cán bộ nhân viên Nhà sáng tác chúc mừng thành công của Trại sáng tác. Tuy trại sáng tác diễn ra trong thời điểm căng thẳng do dịch bệnh Covid-19 bùng phát, nhưng các trại viên đã có ý thức tự bảo vệ cũng như phối hợp tốt với Nhà sáng tác, đảm bảo cho công tác tổ chức trại diễn ra an toàn, thành công về mọi mặt.
Trại sáng tác đã thu được kết quả là 136 tác phẩm, với 133 tác phẩm ảnh, 3 tuỳ bút.
KẾT QUẢ TRẠI SÁNG TÁC - HỘI NHIẾP ẢNH NGHỆ THUẬT HÀ NỘI (28/7-03/8/2020)
| STT | Họ và tên văn nghệ sĩ | Dân tộc | Giới tính | Số lượng tác phẩm | Tên tác phẩm |
| 1 | Nguyễn T.Tuyết Minh | Kinh | Nữ | 5 | Bên suối |
| Thiền viện trúc lâm Tây Thiên | |||||
| Sương sớm | |||||
| Cầu an | |||||
| Góc chợ quê | |||||
| 2 | Đinh Quang Tiến | Kinh | Nam | 5 | Phút giải lao |
| Chợ phiên | |||||
| Nghề gốm | |||||
| Tình cảm | |||||
| Chị em | |||||
| 3 | Nguyễn Tiến Bách | Kinh | Nam | 5 | Bình Minh Đại Lải 1 |
| Bình Minh Đại Lải 2 | |||||
| Em tắm suối Dơi 1 | |||||
| Em tắm suối Dơi 2 | |||||
| Dòng sông quê tôi | |||||
| 4 | Hoàng Mạnh Minh | Kinh | Nam | 5 | Công trường xây dựng đường quanh hồ Đại Lải |
| Đốt rác bảo vệ môi trường | |||||
| Bến tàu du lịch hồ Đại Lải | |||||
| Thiền viện trúc lâm | |||||
| Phong cảnh Nhà sáng tác Đại Lải | |||||
| 5 | Ứng Quốc Bình | Kinh | Nam | 5 | Người thổi hồn vào đất 1 |
| Người thổi hồn vào đất 2 | |||||
| Người thổi hồn vào đất 3 | |||||
| Bên thuyền Đại Lải thời Covid2020 | |||||
| Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Đạo Lai | |||||
| 6 | Phạm Công Thắng | Kinh | Nam | 5 | Hồ Đải Lải chiều buông |
| Làng rèn Vĩnh Tường | |||||
| Tam Đảo mờ sương | |||||
| Trại nuôi lợn rừng Ngọc Thanh - Đại Lải | |||||
| Chăm sóc thông con Caribê (Trung tâm khoa học Đông Bắc Bộ) | |||||
| 7 | Nguyễn Đăng Minh | Kinh | Nam | 5 | Đôi bạn dân tộc Cao Lan |
| Bêếp lửa dân tộc Sán Dìu | |||||
| Rừng thông Đại Lải | |||||
| Bình Minh trên hồ Đại Lải | |||||
| Bay trên Tam Đảo | |||||
| 8 | Nguyễn Thị Thanh | Kinh | Nữ | 5 | Thiền viện trúc lâm Tây Thiên |
| Chùa Tây Thiên | |||||
| Bình minh Đại Lải | |||||
| Hoàng hôn Đại Lải | |||||
| Chùa Tây Thiên 2 | |||||
| 9 | Phạm Trường Thi | Kinh | Nam | 5 | Mưu sinh bên sông Cà Lồ |
| Gốm Hương canh vào lò | |||||
| Nét gốm Hương canh | |||||
| Bến tàu Đại Lải một góc nhìn | |||||
| Mưu sinh bên hồ Đại Lải | |||||
| 10 | Đỗ Thanh Uyên | Kinh | Nam | 5 | Bình minh bên hồ Đại Lải |
| Góc quê | |||||
| Sớm mai trên dòng sông Cà Lồ | |||||
| Gia công gốm làng nghề Hương Canh | |||||
| Góc vườn quê làng Viêm | |||||
| 11 | Nguyễn Ngọc Phan | Kinh | Nam | 1 | Nhà văn Trần Đơng - một cây bút âm thầm lặng lẽ |
| 12 | Trần Đạo Lai | Kinh | Nam | 5 | Nghệ nhân gốm mỹ thuật Hương Canh |
| Hang Dơi - nơi du lịch kỳ thú | |||||
| Chân dung | |||||
| Lại có sản phẩm mới | |||||
| Luyện đất gốm | |||||
| 13 | Lương Thiên Thanh | Kinh | Nữ | 3 | Lên chùa cầu an |
| Giờ ăn trưa | |||||
| Đường chùa | |||||
| Buổi sáng ở thiền viện trúc lâm Tây Thiên | |||||
| Chuẩn bị lễ Phật | |||||
| 14 | Nguyễn Nguyên Ngọc | Kinh | Nam | 4 | Công trường xây dựng đường quanh hồ |
| Đốt rác bảo vệ môi trường | |||||
| Bến tàu du lịch Đại Lải | |||||
| Phong cảnh Nhà sáng tác Đại Lải | |||||
| 15 | Nguyễn Văn Hải | Kinh | Nam | 5 | Bình minh bên hồ Đại Lải |
| Tắm hồ | |||||
| Hoàng Hôn | |||||
| Cải tạo ven hồ | |||||
| Sớm mai | |||||
| 16 | Nguyễn Tiến Sính | Kinh | Nam | 5 | Góc nhìn nghệ sĩ |
| Bình minh Đại Lải | |||||
| Kè hồ | |||||
| Khỏe để học tập | |||||
| Thể dục buổi sáng | |||||
| 17 | Trần Thịnh | Kinh | Nam | 5 | Bến đợi |
| Bình minh Đại Lải | |||||
| Thanh bình | |||||
| Nâng cấp khu nghỉ | |||||
| Cho đẹp hơn | |||||
| 18 | Lê Huy Cường | Kinh | Nam | 5 | Đóng bầu sản xuất cây con |
| Chăm sóc thông con Caribê | |||||
| Bên nhà thờ cổ Tam Đảo | |||||
| Đường lên Tam Đảo | |||||
| Chiều bên hồ Đại Lải | |||||
| 19 | Đỗ Văn Quảng | Kinh | Nam | 5 | Bình minh hồ Đại Lải |
| Bên suối | |||||
| Ruột gốm | |||||
| Tác phẩm mới | |||||
| Kiểm tra sản phẩm | |||||
| 20 | Nguyễn Quang Tuấn | Kinh | Nam | 5 | Nét quê |
| Chị em | |||||
| Bình minh bên hồ | |||||
| Trên đường phát triển | |||||
| Nông thôn hôm nay | |||||
| 21 | Nguyễn Hữu Nền | Kinh | Nam | 5 | Hoàng hôn trên hồ Đại Lải |
| Vui chơi đảo Ngọc (hồ Đại Lải) | |||||
| Gốm truyền thống Hương Canh (Vĩnh Phúc) | |||||
| Nghi lễ hàng ngày thiền viện trúc lâm Tây Thiên | |||||
| Khu du lịch tâm linh: Chùa Tây Thiên | |||||
| 22 | Nguyễn Đình Thụ | Kinh | Nam | 5 | Trở về đảo Ngọc - Đại Lải |
| Khẩn trương hoàn thành | |||||
| Bến tàu đang hoàn thiện | |||||
| Trở về từ bãi tắm | |||||
| Bến tàu hậu Covid | |||||
| 23 | Nguyễn Công Bình | Kinh | Nam | 5 | Buổi sáng ở bên hồ Đại Lải |
| Cuộc sống thường ngày | |||||
| Nắng sớm hồ Đại Lải | |||||
| Lò gốm Hương Canh | |||||
| Giờ giải lao ven hồ Đại Lải | |||||
| 24 | Nguyễn Văn Ngọc | Kinh | Nam | 5 | Việc thường ngày của bố em |
| Đồng điệu | |||||
| Thiếu nữ | |||||
| Vô đề | |||||
| Quê tôi | |||||
| 25 | Nguyễn Quý Hoài | Kinh | Nam | 5 | Chăm sóc rùa tại trạm ĐDSH Mê Linh |
| Thạch sùng núi | |||||
| Đàn lợn rừng ở nhà ông Ninh Thường | |||||
| Bên đầm sen | |||||
| "Săn" hoàng hôn | |||||
| 26 | Mai Tuyết Lan | Kinh | Nữ | 5 | Sáng sớm ở Đại Lải |
| Bên hồ | |||||
| Hoàng hôn | |||||
| Câu cá | |||||
| Trong rừng thông | |||||
| 27 | Chu Chí Thành | Kinh | Nam | 2 | Bài viết: Niềm xúc động vô hạn của quân và dân ta tại lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh |
| Bài viết: Những tấm ảnh mạnh hơn bom tấn | |||||
| 28 | Phạm Tiến Dũng | Kinh | Nam | 5 | Trạm đa dạng sinh học Mê Linh |
| Buổi sáng bên hồ Đại Lải | |||||
| Tây Thiên thiền viện | |||||
| Lò gốm Hương Canh | |||||
| Hoàng hôn Đại Lải | |||||
| 29 | Trần Đương | Kinh | Nam | 1 | Bài viết: Một số cảm nhận về bướcđường phát triển của nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội |
| 30 | Bùi Đức Ninh | Kinh | Nam | 5 | Chiều bãi tắm hồ Đại Lải |
| Hoàng hôn hồ Đại Lải | |||||
| Khu nghỉ dưỡng Flamingo Đại Lải | |||||
| Mô hình vườn ao chuồng (KT gia đình) | |||||
| Bình minh hồ Đại Lải |
Truyện ngắn của Nguyễn Khánh Hội - Hội Nhà văn Việt Nam Ban Văn học Công nhân – sáng tác tại Nhà sáng tác Đại Lải tháng 7/2020
ĐƯỜNG ĐẾN ĐẢO VÂN
Sau khi tốt nghiệp Trung cấp sư phạm Hà Nội, Kim Lan có quyết định về khu Hồng Quảng (nay là tỉnh Quảng Ninh) dạy học. Về đến khu thì lại có quyết định ra huyện đảo. Đến huyện, Kim Lan được phòng Giáo Dục quyết định cho ra Đảo Vân. Còn lại một số các bạn của Kim Lan được điều lên các huyện miền núi. Có người có điều kiện chạy chọt thì được dạy ở thị trấn, thị xã, còn lại một số chuyển nghề hoặc bỏ việc nhất quyết không đi ra biên giới miền núi hải đảo.
Kim Lan quay về nhà báo cho bố mẹ biết. Mẹ của Kim Lan buồn lắm, lo cho con “Thân gái dặm trường”. Bố bảo: “Tùy ý con, vì con hiểu con hiểu công việc của con hơn ai hết, bố lúc nào cũng ủng hộ quyết định của con”. Vậy là Kim Lan quyết định ra Đảo Vân dạy học. Quê Kim Lan ở một xã nông thôn thuộc thị xã Bắc Ninh. Con đường từ Bắc Ninh ra Đảo Vân phải mất ba ngày. Nếu nhỡ một chuyến đò thì mất thêm ba ngày nữa, vì ba ngày mới có một chuyến đò ra đảo. Đường đi phải qua mấy chặng xe, qua bao cầu phà và một chuyến đò nữa mới tới huyện đảo, từ huyện đảo tới Đảo Vân phải đi một chuyến đò dài gần ba mươi cây số.
Chỉ còn đêm nay nữa là Kim Lan phải chia xa bố mẹ, xa bạn bè, xa quê hương yêu dấu. Nơi có con sông Cầu “Nước chảy lơ thơ…”, nơi miền quan họ ngọt ngào tha thiết với đủ các làn điệu làm say đắm lòng người. Kim Lan quyết định chọn con đường ra Đảo Vân dạy học là trách nhiệm của một đoàn viên, được nhà trường truyền dạy kiến thức sư phạm. Vì thế Kim Lan không thể bỏ nghề được. Hình ảnh các em học sinh vùng biên giới hải đảo thất học càng thôi thúc Kim Lan.
Ngủ lại huyện đảo một đêm, sáng sớm Kim Lan ra bến, tìm đò ra đảo. Đúng bảy giờ đò đón khách, gần hai mươi con người phải chui vào một cái khoang thuyền chật hẹp.Gió ngược, thuyền phải chạy vát vòng đi vòng lại. Được một lúc nước ở đáy thuyền mùi nước xông lên nồng nồng, Kim Lan thấy khó chịu, đánh bạo xin ra ngoài ngồi gần ông lái đò ngắm cảnh hóng gió. Trước cảnh non nước hữu tình của Vịnh Bái Tử Long huyền thoại, Kim Lan cũng vơi đi nỗi nhớ nhà. Mãi đến ba giờ chiều đò mới cập bến Đảo Vân. Theo mọi người đi bộ qua một bãi cát dài chừng năm trăm mét mới vào đến bờ, vì hôm nay nước cạn về chiều, thuyền không vào cập bờ được. Vào làng, trước mắt Kim Lan xung quanh là rừng rậm, cây cối mọc um tùm, đường đi là một cái lối mòn nho nhỏ, phải qua mấy cái cầu tre, khoảng cách nhà nọ đến nhà kia vài trăm mét. Dân cư thưa thớt, từng đàn chim chào mào, chim ngói, thấy người bay táo tác kêu ríu rít.
Đến trụ sở Ủy ban Đảo Vân, Kim Lan trình giấy tờ cho ông Chủ tịch, xem xong ông tươi cười nói: “Cô giáo ra đây dạy học dân làng Đảo Vân này mừng lắm! Con em ở đây thất học nhiều đời rồi, dân Đảo Vân nghèo lắm nghèo cả con chữ nữa”. Kim Lan được ông bố trí nghỉ nhờ một gia đình hiền lành tử tế. Ông chủ nhà tên là Hoan, bộ đội đánh pháp phục viên.Vợ ông tên Hạnh, vợ chồng ông có ba người con. Hùng con trai đầu đang tại ngũ, Dũng thứ hai ở nhà với ông đi biển đánh cá, cô gái út đã lấy chồng. Nhà ông Hoan làm bằng gỗ lợp cỏ tranh, nhà ba gian, gian giữa thờ các cụ, phía ngoài có bộ bàn ghế tự đóng để uống nước và tiếp khách.Còn gian bên đều có buồng, gọi là buồng thôi chứ nó được ngăn ra bằng phên nứa có cửa hẳn hoi.Buồng bên trái vợ chồng ông Hoan ở, phía ngoài kê một giường để tiếp khách.Buồng bên phải của Dũng, phía ngoài cũng kê một giường phản. Một nhà ngang, một gian ăn cơm và để đồ đạc, gian cuối làm bếp. Ông Hoan bố trí cho cô giáo Kim Lan ngủ ở buồng Dũng, ông tìm ván đóng tạm cho Kim Lan một cái bàn để soạn giáo án và trang điểm, buồng có chốt trong khóa ngoài an toàn. Từ ngày có cô giáo Kim Lan đến ở, Dũng ít về nhà, thi thoảng mới về nhà ăn cơm rồi lại ra thuyền ngủ.
Chỉ trong một tháng mà Ủy ban Đảo Vân đã tổ chức mọi người dân dựng được một ngôi trường ba gian bằng gỗ lợp tranh nứa, có đủ bàn ghế, bảng đen và một quả trống nữa. Dựng xong trường, ủy ban tổ chức các ban ngành đoàn thể đi xuống từng nhà dân vận động cho con em đi học, cả cô giáo Kim Lan cùng tham gia. Chỉ trong một tuần đã có 45 học sinh tuổi từ 11 đến 15 tuổi đăng ký đi học.
Ngày khai giảng, ông Chủ tịch đảo lên phát biểu: “Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc học hành của con em vùng biên giới hải đảo, cho giáo viên về đây mở lớp dạy học. Các cháu phải cố gắng học chăm, học cho giỏi sau này xây dựng đảo, không còn cảnh đói nghèo như bây giờ nữa”. Ông động viên cô giáo Kim Lan: “Ở đảo tuy buồn, cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng làng Đảo Vân này sẽ một lòng chung sức giúp đỡ cô giáo với một tình cảm trách nhiệm cao nhất. Mong cô giáo hãy hết lòng yêu quý đảo, yêu nghề.Dân làng đảo sẽ mãi mãi ghi nhận công sức của cô giáo người đầu tiên đến Đảo Vân dạy học”. Sau cùng cô giáo Kim Lan lên có lời cám ơn ban lãnh đạo Đảo Vân và hứa sẽ làm tốt trách nhiệm của một người giáo viên. Buổi khai giảng đã kết thúc, đại biểu về hết. Kim Lan kiểm tra con số học sinh, tất cả không thiếu một ai. Giờ đầu tiên Kim Lan dạy các em học hát một bài đồng ca, sau đó căn dặn học sinh chuẩn bị sách bút, dụng cụ học tập theo thời khóa biểu của cô đề ra.
Mới có sáu tháng mà học sinh đã đọc thông viết thạo, bởi cô giáo Kim Lan rất tận tình kiên trì chỉ bảo. Em nào chữ xấu cô đến từng bàn hướng dẫn viết từng nét chữ, nắn nót cho từng học sinh. Cô giáo Kim Lan khổ nhất là giờ tập đọc, dạy các em phát âm cho đúng. Vì cả vùng đảo này đều phát âm theo tiếng địa phương, dấu hỏi thì đọc dấu ngã, L thì đọc N, Tr thì vất chữ R đi…vv. Cô đã làm hết sức mình vì học sinh thân yêu. Tuy thời gian ngắn nhưng cô giáo đã chịu khó tìm hiểu phong tục tập quán ở làng Đảo Vân về văn hóa ứng xử, giao tiếp, đến từng bữa cơm. Người đảo ra đường gặp nhau dù già hay trẻ đều phải chào hỏi nhau vui vẻ, đồ ăn kiếm được cho nhau là chính, ít khi bán. Gia đình nào gặp khó khăn thì được giúp đỡ, khi buồn khi vui quấn túm lấy nhau chia ngọt sẻ bùi.Khi dọn cơm phải đủ mỗi người một cái đĩa để gỡ cá, con gái bao giờ cũng ngồi gần nồi để xới cơm cho cả nhà.Vì vậy cô mau chóng hòa đồng với mọi người, dân làng Đảo Vân ai cũng khen cô giáo đẹp người đẹp nết, tận tình với học sinh, lại hát hay nữa. Có lần đi sinh hoạt đoàn thanh niên, Kim Lan hát bài quan họ “Ngồi tựa mạn thuyền”, làm cho bao chàng trai đảo nghe mà lịm cả người, đề nghị hát lại mấy lần. Có bạn còn tếu với Dũng “Cố mà giữ cô giáo nhé, đừng để cô giáo chán đảo về đất liền thì tổn thất lắm đấy”.Dũng liếc mắt nhìn, cô giáo Kim Lan bối rối thèn thẹn vờ quay đi.
Công việc dạy học giờ đã tạm ổn, tối nay Kim Lan mới có thời gian rảnh viết thư về cho bố mẹ. Buồng bên ông bà Hoan đã vặn đèn nhỏ đi ngủ, không gian yên tĩnh chỉ còn nghe rõ tiếng sóng biển từ xa dội về ầm ào không ngớt. Kim Lan nhớ nhà vô cùng, một chút buồn man mác thoáng qua. Đã lâu rồi Dũng không về nhà ngủ.Hôm nay đi chơi với bạn được các bạn chúc cho say mềm, với lý do là nhà có “người đẹp” đến ở. Mãi khuya mới về đến nhà, không kịp mắc màn Dũng nằm lăn ra ngủ luôn không biết gì cả. Trong buồng Kim Lan đang ngồi viết, thấy động Kim Lan từ từ hé cửa ra xem. Bất ngờ cô nhìn thấy Dũng nằm nghiêng người ngủ say ở giường ngoài từ bao giờ. Kim Lan nhẹ nhàng rón rén từng cử chỉ đi lấy màn mắc cho Dũng để muỗi khỏi đốt, rồi dằn màn chung quanh cẩn thận. Qua ánh sáng trong buồng hắt ra, Kim Lan nhìn rõ dáng vóc của Dũng, nhất là bờ vai cơ bắp cuồn cuộn của người con trai biển. Dũng vẫn ngáy đều đều. Nhìn khuôn mặt hiền hậu dễ thương thoáng qua một chút Kim Lan vào buồng chốt cửa lại. Đêm đã về khuya tiếng sóng biển cứ vọng về làm Kim Lan xôn xao không ngủ được. Hình ảnh Dũng cứ chập chờn ẩn hiện. Mãi tới gần sáng Kim Lan mới chìm vào giấc ngủ bao giờ không biết nữa. Sáng ngủ dậy Dũng nói với mẹ: “Tối qua con đi chơi với bạn, chúng nó chúc rượu say quá con về nhà không kịp mắc màn, tỉnh dậy không biết bố hay mẹ mắc màn cho con rồi”. Trong buồng, Kim Lan cũng đã thức dậy, nghe Dũng nói vậy, cô không nói gì thêm. Vậy là bà Hạnh biết ai đã mắc màn cho con trai, nhưng bà vẫn nhận với Dũng là mẹ mắc cho con đấy. Trong thâm tâm bà từ lúc Kim Lan về nhà ở được mấy tháng, hiểu biết được tính nết của cô, bà đã ước ao giá như cô chịu làm con dâu bà thì tốt biết mấy. Kim Lan mở cửa buồng ra ngoài, nhìn thấy Dũng, cô ngường ngượng rồi vờ hỏi: “Anh Dũng về nhà từ bao giờ vậy?”.Dũng trả lời: “Anh về đêm qua”.“Tối qua em ngủ sớm không biết anh về”. Sáng nay ngồi ăn cơm, Dũng nhút nhát không dám mở lời trước, thèn thẹn không dám ăn nhiều. Mọi người ăn xong, Kim Lan bê nồi cơm xuống trước, Dũng vội vàng bê mâm bát theo sau rồi ngồi rửa bát luôn. Thấy vậy, Kim Lan nói: “Việc ấy không phải của con trai, anh Dũng để em rửa cho”. Dũng nhỏ nhẹ: “Ở Đảo Vân này không phân biệt việc nào là của con gái con trai cả, cứ thấy việc làm được là làm thôi!”.Nghe Dũng nói vậy, cô ngồi xuống rửa bát cùng Dũng, chuyện trò cởi mở hơn.
Ngày tháng vèo trôi, Kim Lan đã quen dần với cuộc sống ở đảo. Ngoài giờ lên lớp soạn bài, cô cùng bà Hạnh trồng rau, cấy lúa. Ngày chủ nhật, côtheo bà Hạnh ra biển bắt ốc, cạo hến, đánh hà và còn tập đào sá sùng nữa. Biết tin Kim Lan sắp được về quê ăn tết, dân làng đảo chuẩn bị quà cho cô nào là cá khô, tôm khô, mực ống, sá sùng, mắm cầu gai…v.v.
Kim Lan về đến quê. Bà con họ hàng bè bạn kéo đến hỏi thăm rối rít. Nào là ở đảo có buồn không?Dân ở đấy có quý người không?Ra tết tìm mọi cách nhờ cậy người ta xin chuyển về quê hoặc đất liền mà dạy cho đỡ khổ, đi lại vất vả lắm. Cô cám ơn mọi người đã quan tâm rồi kể cho mọi người nghe: “Ở Đảo Vân tuy đi lại có trở ngại một chút, nhưng ở đấy hay lắm. Người dân ngoài đảo hiền hòa mến khách, đồ ăn ít phải mua mà làm ra, kiếm được lại toàn là hải sản quý, không khí trong lành mát mẻ.Quang cảnh thì sơn thủy hữu tình, không lâu nữa Đảo Vân sẽ là nơi du lịch lý tưởng tuyệt vời đấy. Mới ở được mấy tháng mà Kim Lan đã tăng được 4 - 5 kg rồi”. Nói xong Kim Lan biếu mỗi người một ít quà biển. Nghe cô kể, mọi người cũng mừng. Bố Kim Lan nghe vậy cũng thấy vui, còn bảo: “Khi nào có điều kiện sẽ ra thăm đảo, thăm con gái”. Còn mẹ cô thì từ lúc con gái về bà trầm ngâm ít nói hơn mọi ngày. Bà mừng khi con về, lại lo cho con đi. Chiều ấy chỉ có hai mẹ con ở nhà, mẹ Kim Lan nói với con gái: “Anh Thành cùng học cấp ba với anh cả con đấy, bây giờ công tác ở Hà Nội làm chức gì cũng kha khá, về quê đi toàn bằng xe con. Anh ấy lúc nào về cũng sang nhà mình chơi, luôn hỏi thăm con đấy. Anh ấy bảo nếu con đồng ý yêu anh ấy, anh ấy sẽ xin được cho con về quê dạy học, hoặc chuyển sang một ngành khác ở Hà Nội. Mẹ thấy được vậy thì tốt quá, ối người mơ không được đấy, con thấy thế nào? Im lặng một lúc, Kim Lan từ tốn nói với mẹ: “Mẹ ơi! Con không về được đâu mẹ ạ! Con ở đấy quen rồi”. Bà mắng yêu con gái “Cha bố cô! Ở đấy mà chết già à!”. Kim Lan tươi cười: “Mẹ yên tâm đi, ở Đảo Vân đầy con trai, người nào cũng hiền lành chăm chỉ lao động. Tướng mạo cao ráo khỏe mạnh, đẹp trai như diễn viên ấy mẹ ạ!”. “Nhưng mẹ chỉ có mình con là gái, con ở xa thế sau này mẹ già lấy ai chăm sóc”. “Mẹ lo gì nữa, đã có hai nàng dâu hiếu thảo rồi còn gì”. Bà thuyết phục con gái không được đành nhờ cái uy của chồng xem sao. Bà nói với chồng về chuyện Thành và con gái. Nghe xong ông gạt phắt đi: “Cứ để tùy nó, cho nó quyết định, bà đừng can thiệp vào chuyện riêng tư của nó, nhất là chuyện tình cảm”. Mẹ Kim Lan thất vọng về chồng con, buồn ra mặt.
Chỉ còn mấy ngày nữa là Kim Lan hết phép. Biết tin cô về, Thành sang chơi. Mẹ Kim Lan đon đả mời Thành vào nhà và gọi con gái ra tiếp. Bà bảo Thành: “Anh Thành ngồi đây chơi với em, cô sang đây có chút việc”, thật tình thì bà cố tình tạo điều kiện cho Thành tiếp xúc con gái bà xem sao. Chuyện trò xã giao được một lúc, Thành đặt vấn đề thẳng với Kim Lan như hôm xưa Thành đã nói với mẹ cô. Thành dứt lời, Kim Lan nói ngay: “Em cảm ơn anh đã quan tâm đến em, nhưng em ở đảo quen rồi và có ý định ở đó trọn đời”. Thành xen vào: “Em đừng nghĩ tiêu cực như thế, nhiều người muốn thoát cảnh ở đảo về đất liền mà em lại cố tình bám đảo”. “Anh Thành ạ!Mỗi người có một hoài bão riêng. Ai cũng bỏ đảo về thì con em ở đảo sẽ thất học hết. Em không đành bỏ đảo, bỏ học sinh được.Anh thông cảm cho em”. Thấy không chinh phục được Kim Lan, Thành bèn cáo lỗi ra về. Mẹ Kim Lan về nhà, thấy con gái vui hớn hở, vừa dọn nhà vừa hát, bà mừng rỡ hỏi con gái: “Hai đứa bàn nhau đến đâu rồi?”, “Đến chỗ mà con gái bám đảo đến cùng, anh Thành không đồng tình bỏ về rồi mẹ ạ!”.Bà không nói gì thêm, mặt buồn rười rượi đi vào buồng nằm. Ngày mai Kim Lan trở về Đảo Vân, ông bố chuẩn bị cho con gái một yến gạo nếp ngon, năm lít rượu nhà nấu để đem ra biếu gia đình ông chủ nhà nơi con gái ông ở nhờ.
Kim Lan về quê có nửa tháng mà cả nhà ông Hoan ai cũng mong, cũng nhớ. Có lần Dũng hỏi mẹ: “Bao giờ Kim Lan ra đảo hả mẹ”. Linh cảm của bà Hạnh mách bảo chắc thằng Dũng nhà mình ưng cô giáo rồi đây. Bà nói với con trai: “Thích cô giáo rồi phải không? Nếu thích thì từ nay hãy quan tâm chăm sóc cô giáo đi.Bố mẹ cũng ưng cái nết của nó rồi đấy”.
Được tin Kim Lan về đảo, Dũng vội ra bến đò đón. Gặp nhau Dũng chẳng biết nói gì, mặt đỏ bừng lên rồi nói khẽ vừa đủ cho cô nghe được: “Đưa hết đồ đây anh đem về cho”. Trên đường về, cô cảm thấy xốn xang trong lòng, Kim Lan đi sau cứ ngắm hoài Dũng tay xách nách mang, rồi tủm tỉm cười thầm một mình. Về đến nhà, Kim Lan đon đả chào ông bà Hoan: “Bố mẹ cháu gửi biếu bác bá chút quà quê”. Ông Hoan nói: “Quý hóa quá. Hôm nào viết thư về cho bác bá gửi nhời hỏi thăm và cám ơn ông bà trong ấy nhé”.Cơm chiều xong, Dũng ra thuyền ngủ. Đêm ấy Dũng trằn trọc cả đêm suy nghĩ, liệu Kim Lan có yêu mình không? Mà trình độ của mình chỉ học hết lớp bốn bổ túc văn hóa , hiểu biết có hạn, nhà thì nghèo. Còn Kim Lan thì học cao hiểu rộng lại có nghề danh giá. Biết đâu một vài năm nữa Kim Lan được chuyển về đất liền thì khó cho mình quá…Biết bao ý nghĩ vẩn vơ. Bản tính của Dũng thì nhút nhát không dám mở lời trước. Nghe mẹ, Dũng vào rừng lấy tre, nứa, làm cho Kim Lan một cái nhà tắm riêng kín đáo, cắm cọc chăng dây phơi, rồi đan một tấm phên bằng nứa làm trần trong buồng Kim Lan cho đỡ bụi rơi xuống. Thấy những cử chỉ, việc làm của Dũng, Kim Lan xao lòng, thầm yêu trộm nhớ từ lúc nào không biết nữa. Chỉ thấy lâu lâu Dũng không về nhà là cô lại nhớ nhớ, thương thương, ngơ ngẩn đợi mong. Giờ đây không chỉ Dũng quan tâm mà ông bà Hoan cũng quan tâm chăm sóc Kim Lan hơn. Có lần bà Hạnh ốm, Kim Lan chăm sóc bà như chính mẹ mình vậy. Ngoài những giờ lên lớp, về nhà cô cùng bà Hạnh làm hết việc này đến việc khác, đi đâu cũng có nhau. Dân làng cũng đã xì xào bàn tán: Chắc bà Hạnh muốn Kim Lan làm con dâu đây! Có người lại nói đời nào cô giáo Kim Lan lại chịu lấy thằng Dũng và ở lại cái Đảo Vân này…
Thời gian trôi nhanh quá. Đã hơn hai năm cô giáo Kim Lan đã gắn bó với cái làng Đảo Vân trong tình yêu thương đùm bọc của mọi người dân trên đảo. Sự yêu quí của học sinh dành cho cô giáo Kim Lan thật trân trọng. Và cô giáo Kim Lan cũng đã để lại những tình cảm, ấn tượng tốt đẹp cho các em học sinh, cho mọi người dân trên đảo. Ai cũng sợ cô giáo Kim Lan chuyển đi nơi khác dạy học, thì thiệt thòi lớn cho Đảo Vân này.
Chiều nay Kim Lan xin phép ông bà Hoan xuống thuyền Dũng chơi. Mấy hôm nay, Dũng không về nhà, gió to không đi biển được, cùng anh em tranh thủ vá lưới. Từ xa, Dũng đã nhìn thấy Kim Lan đi về thuyền mình. Dũng vội vàng vào khoang thuyền lấy quần dài vận vào, rồi bảo các bạn cùng vá lưới nhanh chóng thu gọn lưới vào có khách đấy. Dũng lao cầu cho Kim Lan lên thuyền. Mấy bạn Dũng ý tứ chào Kim Lan rồi ra về để Dũng có cơ hội tâm sự. Ngồi chơi được một lúc, Kim Lan nói: “Anh Dũng dạy em vá lưới đi, biết vá rồi, lúc nào em rảnh em xuống vá hộ anh”. Dũng bảo: “ Em học làm gì. Nay mai về đất liền rồi lấy lưới đâu mà vá”. Kim Lan đáp lại: “Vậy em muốn ở lại đây mãi anh Dũng có đồng ý không?”. Dũng nghe nói vậy mừng quá, lúng túng nghĩ mãi mới tìm được câu trả lời: “ Việc ấy anh chưa dám nghĩ tới mà chỉ có mơ ước thôi! Nếu được vậy, cả đời anh chẳng còn mơ ước gì thêm”.Dũng nói những lời mộc mạc chân thành của người trai đảo. Những ấn tượng tốt đẹp ấy càng làm cho Kim Lan yêu mến Dũng. Chiều muộn Dũng bảo: “Ta về đi kẻo bố mẹ anh mong”. Trước mắt Kim Lan là biển rộng bao la, từng con sóng to đua nhau lao vào bờ dữ dội. Có những tảng đá cao đến 15-20m, sóng vỗ trùm lên trắng xóa trông xa như núi tuyết vậy. Bất ngờ Kim Lan hỏi Dũng: “Nếu anh đi biển xa mà gặp sóng gió to thế này thì sao hả anh ?”Dũng trả lời: “Lúc ấy chỉ biết phó thác đời mình cho trời biển thôi! Ở làng Đảo Vân này đời nào cũng có nhưng con thuyền ra đi không về được. Kim Lan thở dài nhìn Dũng rồi quay ra nhìn mặt biển xa xăm nơi có những con sóng xám xịt đang lồng lên, lao vào bờ gào thét tung tóe.
Cơm tối xong, Dũng xuống thuyền. Đêm ấy Kim Lan không tài nào ngủ được. Bao nhiêu suy nghĩ lo âu cứ chao đảo dằn vặt, cô suy ngẫm về số phận cuộc đời của mỗi con người, hình như nó được gắn kết ngầm với nhau mà người đời gọi là duyên số.Thật lòng, cô không thể bỏ cái Đảo Vân này được nữa rồi.Vì tình yêu nghề nghiệp, với đàn em nhỏ thiếu chữ, vì sự thân tình của mọi người dân đảo đối với mình.Và một tình cảm đặc biệt của Dũng dành cho cô, khiến cô không thể chối từ.Cô cũng yêu thương Dũng da diết.
Hè này, Kim Lan rủ Dũng về quê chơi cũng là ướm thử xem bố mẹ có đồng ý không? Trên đường về nhà Kim Lan, Dũng ngơ ngác nhìn những cảnh lạ đi qua các miền quê. Dũng thích nhất là những con sông ngoằn ngoèo chạy dài tít tắp bên cạnh những bãi ngô, vườn chuối ruộng lúa, vườn khoai.Có cả những cánh buồm nâu uốn lượn trên sông. Hai bên bờ người tung chài, người cất vó trông thật lạ mắt. Về đến nhà, Kim Lan giới thiệu với bố mẹ:“ Đây là anh Dũng con bác Hoan chủ nhà ở ngoài Đảo Vân mà con vẫn kể cho bố mẹ nghe đấy.” Dũng nói: “Cháu chào hai bác ạ! Bố mẹ cháu có gửi biếu hai bác chút quà biển và gói chè Vân chính tay bố mẹ cháu làm ra”. Bố Kim Lan vui vẻ nhận quà: “ Cảm ơn ông bà ngoài đấy đã chăm sóc em lại còn cho quà”.
Qua mấy ngày tiếp xúc với Dũng, bố Kim Lan nhận xét: “ Đúng là trai đảo có khác, hiền lành chân thật dễ mến”. Còn mẹ Kim Lan ít nói, những bà linh cảm được việc con gái bà đưa Dũng trở về đây là có chuyện rồi. Tối đến hai mẹ con ngủ với nhau nói chuyện tỉ tê mãi tới khuya. Mới đầu bà không đồng ý, vì con đường ra Đảo Vân quá xa xôi cách trở. Bà thương con gái, rồi cuối cùng thì bà cũng chiều theo ý con. Sáng nay, Kim Lan đưa Dũng đi thăm họ hàng, bạn bè và ngầm giới thiệu mình đã có bạn trai. Đến nhà một người bạn thân tên Liên. Với tính tinh nghịch từ nhỏ, nói thẳng với Kim Lan “ Ôi! Người yêu mày điển trai quá nhỉ, cứ như là diễn viên điện ảnh ấy.Ở Đảo Vân còn anh nào đẹp trai thế này giới thiệu cho tao một anh.Hai đứa mình lấy chồng ở đảo cho có bạn được không?” Kim Lan đáp: “ Tưởng gì chứ mày muốn thì chuẩn bị, mấy ngày nữa theo tao. Nhưng phải bỏ cái tính tinh nghịch ấy đi không thì con trai đảo bản chất hiền lành, nhút nhát thấy mày như vậy họ sợ chết khiếp đi đấy.” Liên vội vàng nói: “Xong ngay, và sẵn sàng bỏ cả quê nữa”. Hai đứa ôm nhau cười khúc khích. Dũng thấy vậy, bẽn lẽn cười theo. Ở nhà, mẹ cô đưa chuyện con gái ra bàn với chồng, bà vừa nói xong, ông vỗ đùi đánh đét một cái rồi bảo: “Tôi đồng ý luôn”. Bà trách ông: “Người gì mà dễ tính thế không biết”. Ông nói: “Con gái mình lớn tuổi rồi, tôi tin nó sáng suốt chọn bạn đời của nó, với lại bà nhìn thằng Dũng xem, nó hiền lành như cục đất ấy, lấy được người chồng như vậy đáng vàng mười đấy”. Mấy ngày về quê Kim Lan, để lại trong Dũng nhiều ấn tượng tốt đẹp về một miền quê đồng bằng trù phú, về những con người hiền lành chân chất như người làng đảo vậy.
Năm học mới, Đảo Vân lại có thêm mấy lớp nữa, Kim Lan có quyết định làm hiệu trưởng cấp một Đảo Vân. Công việc của Kim Lan bận rộn thêm. Ngoài việc dạy học còn phải làm công tác quản lý. Cơ sở vật chất thiếu thốn, cô đều phải một taylo cả. Chiều nay, Dũng về nhà sớm hơn mọi ngày. Ăn chiều xong, Dũng rủ Kim Lan ra bờ biển chơi. Đến một ghềnh đá cao to, nối đuôi nhau uốn lượn, có nhiều tảng đá như ngọn tháp.Tạo hóa đã tô vẽ nhào nặn lên những hình dáng thật kỳ thú đồ sộ nguy nga, hoành tráng trông như một lâu đài. Hai người leo lên một tảng đá cao ngồi ngắm cảnh hóng gió. Dưới chân đá sóng cứ thi nhau vỗ về dào dạt, bên cạnh những con cò biển đang cần mẫn tìm mồi. Dũng kéo Kim Lan ngồi xuống cạnh mình, cùng nhìn ra biển, một màu xanh mênh mông. Chẳng hiểu vì sao những con sóng khi sắp vào bờ lại nở ra bạt ngàn hoa sóng vội vàng xô bờ ôm hôn bờ cát, bờ đá mải mê tình tứ nối tiếp nhau hết lớp này đến lớp khác như vậy. Mặt trời khuất dần. Dũng kéo Kim Lan ngồi sát mình hơn, hai bàn tay Dũng ôm lấy hai bàn tay Kim Lan im lặng. Người đảo có câu: “ Điều chưa nói thì bàn tay đã nói”. Bất ngờ, Kim Lan vội kéo tay về rồi thốt lên: “Ôi cái gì kia anh?”. Trước mặt Kim Lan từ phía chân trời, ánh lên một quầng vàng sóng sánh hắt lên nhịp nhàng theo từng con sóng, những ánh vàng được dát đều trên một khoảng mặt biển rộng mênh mông, rồi cứ từ từ, từ từ nhô dần lên. Cả một khuôn vàng tròn vành vạnh như cái mâm khổng lồ, gối đầu trên sóng nhấp nhô. Phía trên những dải mây ngũ sắc đang lơ lửng như kéo dần mặt trăng lên cao lung linh rực rỡ .“Ôi đẹp quá anh ơi! Lần đầu tiên trong đời em mới nhìn thấy trăng từ mặt biển chui lên đấy, tuyệt vời quá anh ạ!”. Cô định đứng dậy reo lên thì vòng tay Dũng đã ôm chặt cô từ lúc nào. Cô bối rối: “Đừng mà anh”. Dũng kéo Kim Lan đứng dậy. Hai người lại dắt tay nhau đi dọc theo bờ cát sát mép nước. Trăng lúc này đã lên cao, tỏa ánh vàng lấp lánh trải đầy cả một biển trăng, gió thu man mát. Kim Lan đi sát vào Dũng. Bất chợt Kim Lan dừng lại ôm chặt lấy Dũng, đầu nghiêng xuống bờ vai cuồn cuộn cơ bắp, chắc nịch của Dũng. Dũng lặng im cảm nhận như mình đang đứng ở cõi thần tiên vậy.
Bất chợt, từ trong sâu thẳm Kim Lan nhớ lại mấy câu thơ: “Hai đứa dắt tay nhau bóng đổ dài trên bờ biển/ Bàn chân in cát mềm sóng biển/ Tóc bay bay đầu sát bên đầu/ Em thấy trời nghiêng xuống biển/ Như đầu em nghiêng xuống vai anh”. Vậy là Kim Lan đã nghiêng đầu xuống vai Dũng thật rồi…Dũng ôm Kim Lan thì thầm: “Cuối năm nay anh bảo bố mẹ anh tổ chức đám cưới cho chúng mình nhé”. Cô tinh nghịch dập đầu vào vai Dũng mấy cái, rồi hai đứa lại dắt tay nhau đi tiếp dưới biển trời tràn ngập ánh trăng vàng. Đâu đây tiếng chim biển đi ăn đêm gọi nhau chiêu chiếu dưới rặng phi lao, gió reo vi vút như những khúc nhạc tình yêu. Về gần đến thuyền Dũng bảo Kim Lan ngồi xuống một gò cát trắng, Dũng đọc cho Kim Lan nghe mấy câu thơ của đảo: “Yêu nhau yêu vụng nhớ thầm/ Yêu liếc con mắt yêu cầm cổ tay/ Bẻ một cành lá cắm đây/ Nhớ nhau thì cứ lối này mà sang.” Cô nói với Dũng : “Vậy em bẻ một cành trâm cắm đây nhé, lúc nào anh không về nhà em ra đây tìm anh”. Hai người kể cho nhau nghe chuyện làng quê và bàn đến cả chuyện tương lai nữa.Trời về khuya se se lạnh, Dũng cởi chiếc áo ngoài khoác lên người cô.Trăng đã lặn từ bao giờ không biết nữa, trước mặt hai người ở phía biển xa, những đám mây đủ màu sắc đang dâng lên cao, báo hiệu một ngày mới bắt đầu.
***
Làm đám cưới xong vợ chồng Dũng vẫn ở với bố mẹ, cuộc sống của gia đình Dũng tuy vất vả khó khăn về kinh tế nhưng thật là hạnh phúc. Kim Lan đã sinh một đứa con trai khỏe mạnh giống bố như đúc. Ông bà Hoan quý cháu như cục vàng, thay nhau ẵm bế chăm sóc cho con dâu đi dạy học. Ông đặt tên cháu là Mạnh. Những lúc Dũng đi biển xa đánh cá, có lúc động trời cơn cớ vần vũ, bão giông, Kim Lan lo lắng cho chồng vô cùng. Khi không sao nhắm mắt được, Kim Lan haynhớ mấy câu ca dao đảo được mẹ chồng dạy, khe khẽ hát ru con: “À..à…ơi! Em thương anh lắm anh ơi!/ Đang ăn nghĩ đến là rời đũa ra/ Đêm năm canh em ngủ có ba/ Còn hai canh nữa em ra trông giời…À à ơi!...”. Ở cái làng Đảo Vân này đã biết bao người chồng không trở về sau những chuyến đi biển xa bị giông bão ập đến nhấn chìm.Cái nguy hiểm cứ rình rập, đe dọa tính mạng bao người dân làng chài nghèo trên biển. Vì cuộc sống mưu sinh đôi khi họ cũng phó mặc tính mạng cho sự rủi may chẳng biết đâu mà sợ mà tính nữa. Có lúc do kinh tế khó khăn, học sinh bỏ học nhiều, Kim Lan phải đến từng nhà vận động để các em được đến lớp.
Cu Mạnh đã tròn bốn tuổi, vợ chồng Dũng đưa con ra bờ biển chơi. Cu Mạnh tung tăng chạy nhảy nô đùa với sóng không biết chán, đuổi bắt dã tràng không biết mệt. Được đi chơi với vợ con, Dũng cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Từ ngày lấy vợ Dũng mạnh dạn hẳn lên, còn tếu táo trêu vợ nữa. Chiều hôm ấy Dũng ăn cơm xong trước, bế cu Mạnh ra ngoài đút cháo rồi cưng nựng con: “Chịu khó ăn nhiều vào cho chóng lớn đi biển với bố nhé, tối nay bố đi biển, sáng đem cá tươi về cho con ăn, ở nhà không được quấy mẹ để mẹ soạn bài mai còn lên lớp nhớ chưa?”. Mạnh ấp úng “Con nhớ rồi”. Dũng chào bố mẹ, liếc nhìn vợ tình tứ rồi xách đồ xuống thuyền.
Hôm nay trời oi nồng khó chịu, thuyền Dũng cùng hai thuyền nữa chạy trước khoảng nửa giờ còn lại các thuyền chạy sau.Cách đảo chừng hai mươi cây số chuẩn bị thả lưới thì trời trở gió, mây đen ùn ùn kéo về.Biết trời sắp nổi giông bão, mọi người kéo lái cho thuyền vào được một lúc thì gió mưa ào ạt ập đến chạy vời vợt mãi thuyền mới cập bờ. Sáng ra mọi người kiểm tra còn thiếu ba chiếc thuyền, trong đó có thuyền của Dũng. Nhận được tin chẳng lành Kim Lan ngất xỉu, nhà trường phải cho người dìu Kim Lan về nhà. Ông Hoan là người bình tĩnh nhất trong nhà bảo con cháu: “Chờ hết gió là phải nhanh chóng chia nhau đi tìm”. Bà Hạnh nằm liệt giường không dậy được thương con khóc rưng rức, chỉ có cu Mạnh là ngơ ngác không biết gì đã xảy ra. Thấy mẹ khóc nức nở trong buồng cu Mạnh chạy vào nằm cạnh mẹ thản nhiên hỏi: “Sáng nay sao không thấy bố Dũng đem cá về hả mẹ?” Kim Lan ôm con vào lòng nghẹn ngào không nói lên lời. Cả làng Đảo Vân tập trung hết đi tìm, phụ nữ người cao tuổi thì đi tìm quanh đảo, người khỏe thì chạy thuyền đi tìm ngoài khơi.Không khí đau buồn trùm lên khắp đảo, tất cả chỉ biết nín thở chờ đợi tin lành hay dữ.Đã bốn ngày trôi qua không có dấu vết tích gì trôi dạt vào bờ, hoặc trên biển.Hy vọng vơi dần, còn nỗi buồn thì ngày một tăng. Đến ngày thứ bảy Ủy ban quyết định không tìm kiếm nữa mà làm lễ truy điệu. Lễ truy điệu chung có cả chín người, xong gia đình có người mất tích tự làm thủ tục cúng và đắp mộ gió. Thủ tục mộ gió chuẩn bị một sọ quả dừa, một bó hom dâu chặt dài khoảng bốn mươi phân cho vào quan tài bằng gỗ, thủ tục cúng như mộ có thi hài. Sau khi an táng xong đặt một hòn đá để phía đầu mộ. Mồ yên mả đẹp cho chồng xong, Kim Lan xin nhà trường nghỉ một tuần vì sức khỏe. Đêm nào Kim Lan cũng mơ thấy chồng, có lần trong mơ Dũng nói với vợ “Anh không chết đâu, ít ngày nữa là bọn anh về”. Tỉnh giấc Kim Lan nghĩ đời nào có chuyện ấy xảy ra được. Hàng ngày Kim Lan vẫn hương khói đều cho chồng. Cứ đến bữa ăn là xới một bát cơm, một bát thức ăn, một bát to nước, một chiếc khăn mặt để lên bàn thờ cho đủ một trăm ngày, cúng xong trăm ngày mới thôi. Cô xác định ở vậy nuôi con, chăm sóc bố mẹ chồng và trọn đời với làng Đảo Vân này, với đàn em nhỏ thân yêu. Có lần Kim Lan ra mộ gió thắp hương cho chồng rồi đi về gò cát ngày ấy, nơi Kim Lan bẻ một cành trâm cắm giờ đã khô héo. Kim Lan mường tượng thấy chồng đang đọc thơ cho mình nghe: “Nhớ nhau thì cứ lối này mà sang”. Từ hôm mơ thấy chồng nói như vậy, cô không nói cho ai biết, tối đến chỉ biết ôm con hy vọng đợi chờ. Đã có lần Kim Lan đọc ở đâu đó về giác quan thứ sáu có lúc cũng linh nghiệm lắm.
Đêm ấy trời mưa lâm thâm, tiếng sóng xa vẫn cứ dội về ầm ào không ngớt ông Hoan giật mình nghe có tiếng gõ cửa cành cạch rồi có tiếng gọi: “Bố ơi! Mở cửa cho con”.Ông Hoan nằm im lặng đợi thêm chút nữa lại có tiếng gõ cửa và gọi. Ông bật dậy định hình lại mình tỉnh hay mơ đây? Nhẹ nhàng đi về phía bàn thờ, ông đốt ba nén hương lẩm bẩm khấn Dũng: “Con ơi! Bố mẹ và vợ con của con thương tiếc con lắm, bố mẹ đã đắp mộ gió cho con rồi, con sống khôn chết thiêng thì ra đấy đi, đừng về quấy bố mẹ và vợ con con nữa”. Trong buồng Kim Lanđã nghe được hết tất cả, cô thức dậy bê đèn ra khỏi buồng vặn đèn cháy to lên. Ông Hoan bủn rủn cả người, đứng không vững nữa phải ngồi xuống giường. Bà Hạnh run lẩy bẩy ra ngồi cạnh chồng. Tiếng Dũng gọi lần này to nghe rõ ràng hơn. Với linh cảm của một người vợ má ấp môi kề, Kim Lan quyết định ra mở cửa. Vợ chồng ông Hoan hồi hộp lo lắng không biết điều gì sẽ xảy ra đây. Cửa được mở, Kim Lan không tin vào mắt mình nữa. Dũng đây rồi, người chồng yêu quý bằng xương bằng thịt thật đây rồi. Cô vội víu tay vào cánh cửa ngồi sụp xuống đất. Ông bà Hoan nhìn thấy vậy hoảng loạn, ngơ ngác đang phải chứng kiến một cảnh tượng thật bất ngờ.Dũng thấy vậy bỏ túi quần áo xuống bế vợ lên: “Em làm sao vậy”. Dũng bế vợ vào giường rồi ra chào bố mẹ, Dũng nhìn lên bàn thờ hương vẫn cháy, chiếc ảnh của Dũng để cạnh bát hương mới, dưới bát hương các cụ. Vậy là Dũng đã hiểu.Lúc này bố mẹ Dũng ngồi bần thần như trong mơ. Dũng vội chạy sang ôm bố mẹ rồi nói: “Con Dũng đây không phải ma đâu”. Ông Hoan trấn tĩnh lại nhìn con. Kim Lan cũng ra đứng cạnh chồng, bà Hạnh ú ớ được mấy câu rồi đứng dậy ôm con vào lòng không kìm nổi xúc động bà tu lên khóc vì sung sướng. Cu Mạnh chạy ra thấy bố hỏi: “Bố đi đâu mà lâu thế bây giờ mới về”. Niềm vui chưa từng có bất ngờ vỡ òa trong đêm mưa lành lạnh. Dũng ôm con vào lòng nghẹn ngào cảm xúc không nói lên lời…
Hôm ấy thuyền của Dũng và hai chiếc nữa đi quá xa, khi phát hiện ra giông bão thì chạy vào bờ không kịp nữa buộc phải xuống buồm kéo lái cho thuyền trôi xuôi theo chiều gió, lênh đênh hết đêm ấy sang ngày hôm sau thì trôi dạt vào đến tận biển Thanh Hóa. Cả ba chiếc đều bị hư hỏng nặng khi cập bờ. Được bà con ngư dân trong đó cứu giúp, cho ăn, giúp sửa chiếc thuyền cho bọn con trở về. Bà con ở đó còn cấp lương thực cho đi đường nữa. Người dân trong đó cũng làm nghề biển như ta ngoài này, dân biển ở đâu cũng quý giúp nhau tình nghĩa như vậy”. Được tin cả làng Đảo vân kéo đến chia vui với từng nhà, niềm vui ngập tràn khắp đảo. Rồi cùng nhau ra tháo chín cái mộ gió lên vùi lấp lại. Đêm ấy vợ chồng Dũng tâm sự mãi khuya, bất chợt Dũng hỏi vợ: “Giả dụ mà anh không về được, thì em có bỏ Đảo vân về quê không”. “Sao anh lại nghĩ về em như vậy- cô nói- Em sẽ cố vượt qua nỗi đau thay anh chăm sóc bố mẹ già, nuôi đạy con khôn lớn làm tròn trách nhiệm nghĩa vụ của một người giáo viên, vì học sinh thân yêu cho đến lúc già ở lại với làng Đảo Vân này.” Dũng nghe vợ nói mà mát gan mát ruột.
Khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Đảo Vân được đầu tư hạ tầng cơ sở, bệnh xá trường học được xây dựng khang trang, đường làng ngõ xóm được mở rộng.Thuyền đò đóng mới gắn máy chỉ hơn một tiếng là vào đến đất liền. Hợp tác xã cao cấp được thành lập, phương tiện đánh bắt trang bị hiện đại, có tàu trọng tải từ 30 tấn đến 80 tấn gắn máy từ 30 CV đến 150 CV. Ngư cụ tiên tiến, có cả máy dò cá, la bàn, điện đài liên lạc không còn lo giông bão ập đến bất ngờ nữa. Dũng được cho đi học văn hóa, trung cấp quản lý kinh tế. Kim Lan thì được đi học tại chức Đại học sư phạm và quản lý trường. Chỉ có hơn mười năm thôi mà đời sống dân Đảo vân đã được cải thiện rõ rệt.Nhà ngói được mọc lên thay cho những mái tranh nghèo xưa cũ.Đảo Vân đã có trường cấp hai. Kim Lan được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường cấp hai, Dũng thì được bầu làm chủ nhiệm hợp tác xã. Đứa con trai đi bộ đội đóng quân ở đơn vị bác Hùng, đứa con gái mới học năm thứ nhất Đại học sư phạm Hà Nội. Bây giờ gia đình Dũng kinh tế đã ổn định có của ăn của để, nhà cửa đàng hoàng, Đảo Vân đã có trường cấp ba. Dũng bàn với vợ thuê một chiếc xe đón bố mẹ vợ ra chơi.
Được ra thăm Đảo Vân, bố mẹ Kim Lan vui lắm. Ông nói với vợ: “Bà thấy không, nhận định của tôi, con gái mình có trí như vậy ắt sẽ thành công mà”.
Bà bảo:“Nhưng mà ông có biết nó đã phải vượt qua bao gian nan thử thách, vất vả lắm mới có được ngày hôm nay đấy ông ạ! Tôi thương nó đứt ruột đứt gan ông có biết không?”.
“Bà thấy tôi đánh giá con rể mình tuyệt không?”.
“Thôi tôi chịu ông rồi”.
Sáng hôm sau Dũng đưa bố mẹ vợ đi thăm đảo, và còn cho biết những dự án phát triển Đảo Vân trong tương lai, bố mẹ Kim Lan mừng lắm, bảo nhau: “Từ nay không phải lo cho con thân gái dặm trường nữa”.
Đường tới Đảo Vân. Thoáng chốc đã gần ba mươi năm rồi nhỉ…Kim Lan giờ đã là một cư dân thuần thục của làng đảo này. Thoạt nhìn, nhiều người không nghĩ cô quê gốc ở Bắc Ninh. Chỉ cái duyên quan họ là còn mãi.