Minh Phương

Minh Phương

Bế mạc Trại sáng tác âm nhạc “Huế Xưa và Nay”

Tối ngày 29/9, tại hội trường Đài Phát thanh và Truyền hình Thừa Thiên Huế, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật phối hợp với Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức bế mạc trại sáng tác Âm nhạc “Huế Xưa và Nay”.

bemacamnhachuet8 2018

Đến dự có ông Lê Trường Lưu – Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; ông Phan Ngọc Thọ - Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; ông Nguyễn Dung, Tỉnh ủy viên, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; ông Nguyễn Thái Sơn, Ủy viên thường vụ tỉnh ủy, trưởng ban Tuyên giáo tỉnh ủy; ông Huỳnh Văn Ngàn – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật; nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân – Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Chương trình biểu diễn những  khúc được sáng tác trong trại sáng tác âm nhạc “Huế xưa và nay”, như: Gặp em (thơ Dương Vân, nhạc Đỗ Hồng Quân), Sóng Hương Giang (thơ Lê Tự Minh, nhạc Đức Trịnh); Cảm xúc Huế (Tôn Thất Lập), Về Huế với nhau đi (Lê Minh Sơn), Còn trong ký ức (thơ Thái Thăng Long, nhạc Phú Quang)… Đây là những ca khúc mới, giàu cảm xúc và giai điệu, có chất lượng ca ngợi về con người và xứ Huế mộng mơ.

Trại sáng tác “Huế xưa và nay” có sự tham gia của 16 nhạc sĩ là những tên tuổi lớn trên cả nước và một số văn nghệ sĩ tại tỉnh Thừa Thiên Huế tham gia, như: PGS.TS Đỗ Hồng Quân, nhạc sĩ Tôn Thất Lập, nhạc sĩ Phú Quang, nhạc sĩ Lê Minh Sơn, nhạc sĩ Lê Tự Minh, nhạc sĩ Trầm Tích,… Các nhạc sĩ đã đi thực tế tại một số danh thắng trên địa bàn tỉnh, như: tham quan di tích Huế, đầm phá Tam Giang, Vườn Quốc gia Bạch Mã, đầm Lập An, Lăng Cô, huyện A Lưới và một số địa danh khác. Phong cảnh nên thơ và hùng vĩ đã tạo cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tác được những tác phẩm hay, phản ánh chân thực về xứ Cố đô và lòng mến khách của người dân nơi đây.
 
bemacamnhachuet8 2018 1
Các nhạc sĩ tham gia Trại sáng tác chụp hình lưu niệm cùng Ban tổ chức và khách mời.

Tham gia trại sáng tác lần này, các nhạc sĩ đã gặt hái được những thành công tốt đẹp, BTC đã thu nhận được một bộ sưu tập các tác phẩm chất lượng tốt, thể hiện sự say mê và tinh thần trách nhiệm cao của các nhạc sĩ dự trại. 

Nguồn: Tổng hợp.

Chùm thơ của Vũ Kim Liên - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ

Chùm thơ của Vũ Kim Liên - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ, sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 9-2018.

ĐÊM NGHE HÁT BÀI CHÒI ĐÀ NẴNG
                                                                           “...Đi đâu cọ xiểng đi hài

                                                   Cử nhơn không đậu, tú tài cũng không...” (thằng Trò)- Dân ca Bài Chòi Đà Nẵng

Một đêm làm khách lạ
Háo hức bên sông Hàn
Đợi cầu Rồng phun lửa
Thả lên trời bao la
 
Chợt nghe điệu dân ca
Bài Chòi bên quán lá
Những Pho Văn, Pho Vạn
Những Nhứt Nọc, Nhì Nghèo
 
Câu Khai vừa mới gieo
Đã có người đáp lại
Anh Hiệu sóc con bài
Xướng tên trên thẻ rút
 
Điệu Bài Chòi thúc giục
Trống, đờn cò, kèn, sanh
Cùng tấu hòa muôn khúc
Níu hồn người phương xa
 
Mỗi làn điệu dân ca
Một mạch nguồn truyền thống
Lắng sâu hồn dân tộc
Cùng giống nòi bay lên
 
Lắng nghe trong tiếng đêm
Điệu Bài Chòi da diết
Càng yêu hơn tiếng Việt
Tiếng ông cha ngàn đời!

                   Nhà sáng tác Đà Nẵng, 10/9/2018

PHỐ HỘI

Ngày em đi mưa giăng đầy Phố Hội
Mái chùa Cầu cong như võng hứng mưa rơi
Bên gác nhỏ áo dài run vai nép
Phố nhập nhòa không tiếng guốc khua
Những chiếc đèn lồng ngủ quên trời quên đất
Chỉ hoa tím thôi ngọng nghịu nụ cười
Và nón trắng thẫn thờ nón trắng...
Từ buổi ấy xa sông Hoài đi mãi
Tất bật mưu sinh
Chưa trở lại nhà
Những nỗi nhớ vùi vào tim nghèn nghẹn
Cứ lấp đầy từng khoảng trống mong manh
Mỗi cơn mưa thêm mỗi lần khắc khoải
Giục em về thuở ấy tinh khôi
Ngày trở lại đèn hoa giăng kín lối
Phố Hội rêu phong
Mái gỗ bạc màu
Nón trắng qua cầu rền vang tiếng guốc
Tà áo tung bay gọi đèn lồng thức dậy
Phố Hội vàng son. Phố Hội mặc trầm
Ngày em về
Ngõ vắng lại xôn xao...

                                 Đà Nẵng, 13/9/2018

ÔNG AN XÓM TÔI - Truyện ngắn Nguyễn Xuân Quang - Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ

ÔNG AN XÓM TÔI

Truyện ngắn của Nguyễn Xuân Quang – Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ, sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 9-2018.

        Gọi mãi thành quen, chứ ông An xóm tôi đã tám mươi sáu tuổi rồi. Ở quê tôi, những ai ở tầm bảy mươi mùa chim én bay, tức là thuộc lớp người “cổ lai hi” thì thường được mọi người tôn kính, gọi bằng cụ. Ông An cũng chính là cụ An. Cụ hay ông, gọi thế nào cũng được, miễn là không coi thường, rẻ rúng và hỗn láo. Ông An bảo thế.
        Vốn tính hiền lành, chất phác và thảo lảo. Hình như từ trước đến nay, người trong xóm ít khi nghe thấy ông to tiếng, cãi lẫy hoặc hiềm khích với bất cứ ai bao giờ. Nữa, ông tuyệt nhiên không can dự vào bất cứ chuyện gì thuộc về nội bộ cá nhân. Ông cho rằng, mau mắn quá, cứ loi soi vào việc của người khác là dốt, là thô bạo, vì như thế là xâm phạm quyền tự do của người ta, hay hớm gì? Nhưng nếu gia đình nào có chuyện “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” hoặc có cháu nào to tiếng, cãi chửi nhau, làm ầm ĩ trong xóm, khi ấy lại thấy ông xuất hiện. Bằng nụ cười đôn hậu và chất giọng ấm trầm trời cho.. Ông nhỏ nhẹ phân tích, giảng giải lẽ thiệt, điều hơn, cứ như rót mật ong vào tai, ông bảo: “Khôn không qua nhẽ, khỏe không qua nhời. Anh em tay mặt, tay trái. Cùng chung lối đi về. Không nên, không phải cứ lựa lời bảo nhau. Việc gì mà phải sừng sộ, mặt nặng, mặt nhẹ như ông Thiện và ông Ác trong chùa. Rồi mỗi chốc đã lìa được nhau đâu. Đến khi hết cơn nóng, tĩnh tâm, nhìn mặt nhau lại ngượng...”. Thành ra, cả xóm ai cũng nể, cũng yêu quý, coi ông như người ruột thịt của mình. Và, chả biết từ lúc nào, ông An đã trở thành biểu tượng của sự đoàn kết trong xóm. Mỗi khi nhắc tới ông, ai cũng tự hào bảo: Đấy là ông An xóm tôi.
      Ông lâu nay rất tâm đắc câu: “Con nuôi mẹ cha, không bằng ông bà già nuôi nhau”. Chả thế mà cậu con trai út có tên là Đại, hồi hai mươi sáu tuổi cứ ngông ngênh mãi, ông lo muốn phát sốt, phát rét. Đến khi Đại học xong Trung cấp nghề, có việc làm ổn định và lấy vợ. Ông mừng, thở phào nhẹ nhõm, cứ như người trút được gánh nặng hàng tấn trên vai. Ba tháng sau, ông cắt phéng ngay nửa ô đất thổ cư chừng ba trăm mét vuông, dựng căn nhà đúc “một thớt” khá rộng rãi, khang trang và chính thức cho vợ chồng Đại ra ở riêng, khiến cậu ta giãy đành đạch như đỉa phải vôi không chịu. Nhưng cậu nhầm. Xưa nay ông An vốn có tiếng hiền từ, đức độ, nhưng lại rất nghiêm khắc và quyết đoán. Phàm những gì mà ông đã xuy tính kĩ, thì bất di, bất dịch, khó lòng xoay chuyển. Ông bảo:
             - Là thằng con trai cứ bám gấu quần bố mẹ là kém, là hèn. Ví như con chim, đã biết bay rồi thì đừng để bố mẹ mớm bón nữa. Nghe bố giảng giải, uốn nắn thế, Đại vùng vằng, phụng phịu. Chợt thấy bố lừ mắt, cậu câm tịt như hến.
         Thực tình, không phải ông An cố đẩy các con ra ở riêng để cho ông bà rảnh thân, suốt ngày hú hí với nhau đâu. Cái chính là ông muốn các con có ý thức tự lập, làm chủ cuộc sống và gắng vươn lên. Hơn thế, người ta khi đã về già thường trái thân, trái thói, trái tính, trái nết. Tai điếc, mắt mờ đã đành, nhưng cái tính hay hờn mát và chấp nhặt nhiều khi cũng là khởi nguyên của các vụ va chạm mẹ chồng, con dâu. Thôi, cứ ở riêng là hợp lí nhất. Người xưa bảo: tay khỉ bón miệng khỉ, nghe cũng thấy hay hay. Ở riêng tức là tạo cho các con có khoảng trời riêng để tha hồ vùng vẫy. Ở riêng còn có nghĩa là hai ông bà già cũng tự do, thỏa mái hơn. Thôi thì ăn muộn, ăn sớm, ăn khô, ăn nhão...tùy thích, chẳng phiền hà gì đến con cháu. Ở riêng, với xuất lương “thư kí ủy ban” nghỉ hưu ít ỏi của ông và hai trăm bảy mươi ngàn nhà nước cho người ngoài tám mươi tuổi như bà. Thế cũng đủ để hai ông bà trang trải, thích gì mua nấy và sớm chiều tha hồ dí dúm chuyện nhỏ, chuyện to. Những câu chuyện ở nhà quê, được ông bà “xào qua, đảo lại”, kể cho nhau nghe suốt ngày không biết chán.
       Cứ nghĩ cuộc đời êm ả trôi đi, như con sông đã chảy gần đến biển. Bỗng đâu hôm ấy bà bị sốt đùng đùng và ho sù sụ như gõ mõ. Các con cuống cả lên vội mua thuốc kháng sinh về cho bà uống mà chả thấy đỡ, đành đưa bà đi bệnh viện. Tại đây, qua chiếu chụp, thử máu và làm các xét nghiệm. Trời ơi, bà bị căn bệnh ung thư giai đoạn cuối, nó đang gặm nhấm, phá phách hai lá phổi mất rồi. Biết được hung tin, ông An sững người, mặt thờ thẫn như bị ma bắt mất hồn. Hôm bà trút hơi thở cuối cùng để vĩnh viễn ra đi về với tổ tiên như người ta thường nói. Thay vì khóc lóc vật vã, ông An cứ ngồi thừ ra như pho tượng làm bằng gỗ mít. Hai tay ông buông thõng và đôi mắt đùng đục, nhìn đăm đăm về phía trời xa... Đến khi con cháu tổ chức làm ma cho bà, tức là lúc đám nhạc hiếu họ mở trống, khai kèn báo buổi lễ tang bắt đầu, thì ông lại như người bừng tỉnh sau giấc mộng. Ông chống gậy đi tha thẩn ngoài vườn. Ông nhớ bà, tiếc bà và thương bà không biết để đâu cho hết. Ông thương bà vì một nhẽ dễ hiểu, bởi hai người cùng tuổi, cùng sinh ra và lớn lên ở cái xóm Xộp nghèo xơ, nghèo xác một thời. Cái thời chỉ có hai người Pháp mũi lõ, tóc quăn, mắt xanh lè, dám cả gan cai trị cả một tỉnh mấy vạn dân. Cái thời mấy người mặc áo cộc, quần soóc, mũ phớt, tay cầm ba toong, lông lá đầy ngực kia, không biết oai phong, lẫm liệt đến đâu mà đã khiến các vị chức sắc từ tỉnh đến phủ huyện đều rất mực cung kính gọi là “quan lớn”. Họ khúm núm, bẩm thưa, lễ phép hơn cả với cha mẹ đẻ ra mình. Ông thương bà vì hai người cùng đi qua thời kì đất nước có chiến tranh. Khắp nơi chỉ thấy toàn nhà lá, vách đất và đói rách triền miên. Khi đất nước thái bình, nhà nhà no ấm và hai ông bà được hưởng thụ chừng mươi năm, thì bà lại nỡ bỏ ông mà đi. Vẫn biết “sinh lão, bệnh tử” là quy luật muôn đời, nhưng với ông An lúc này sao nó hẫng hụt quá. Cứ xót xót trong dạ thế nào...
       Hình như từ khi bà về thế giới bên kia, đã khiến cho lòng ông An trống vắng. Trống vắng đến tê tái cả ruột gan. Ông thương, ông nhớ và ông ngấm cảnh “chim lẻ bạn” hơn ai hết. Ông tự khép mình, tha thẩn vào ra trong căn nhà ngói ba gian. Trừ những lúc anh em, bạn bè hay con cháu đến chơi là ông vui vẻ. Xong, ông lại kiệm nhời, trầm tư, kín đáo như thể nhà tu hành. Người già, nghĩ nhiều hơn nói là thế...
           Mấy hôm nay đài truyền thanh của xã thông báo chương trình kỉ niệm bảy mươi ba năm cách mạng tháng tám và Quốc khánh mồng hai tháng chín. Tự dưng tôi thấy trong lòng chộn rộn quá. Vốn mến mộ và hợp với lối nói chuyện mộc mạc, chân tình của ông An. Tôi liền đóng bộ sơ mi cho tươm tất, đến chơi với ông. Ra đón tôi tận cửa, ông An lập bập cầm ấm đổ bã chè, pha nước. Đưa tận tay tôi quả ổi găng thơm hức, vàng ươm. Chợt ông hỏi tôi:
               - Năm 1945 chú mày chưa đẻ nhỉ?
         Tôi cười tếu táo:
               - Năm 1945 bố mẹ cháu chưa lấy nhau, nên cháu chưa có “cấn”. Nghe đến đấy, chả biết có phải vì câu nói ngồ ngộ, hay vì vô tình tôi chạm đến nỗi niềm riêng, khiến ông An vui hẳn lên, cười ha hả. Một thoáng như mơ màng. Ông bảo:
               - Năm ấy mình mới mười ba, mười bốn tuổi, còn ngồng ngộc như con châu chấu cộc ngoài bờ ruộng. Cũng năm ấy, quê mình đói dã họng, đói đến thảm hại, thê lương. Bao nhiêu thóc lúa đều phải nộp cho Pháp, cho Nhật để chúng cho ngựa ăn. Nhiều nhà đói quá đành phải ăn cả củ chuối, củ nâu. Nhưng những thứ ấy không thể nuôi sống con người, nên dù có cố nuốt vào dạ dày lại bị dạ dày tống ra ngay lập tức, kèm theo mật xanh, mật vàng cũng tồng tộc ra – Nghe ông An nói đến đấy, tôi khẽ kêu lên: Trời ơi, sao các cụ ngày xưa khổ thế? Thấy tôi sốt sắng, để tâm vào câu chuyện, khiến ông An sôi nổi hẳn lên:
           - May quá, đúng lúc Cách mạng tháng tám nổ ra. Cả làng ầm ầm. Cả huyện ầm ầm. Khắp nơi sùng sục như chảo dầu sôi. Những người nông dân chân lấm, tay bùn bỗng chốc vùng lên. Nào dáo nào mác. Nào tầm vông, gậy gộc, cuốc xẻng... cả rừng người quần nâu, áo vá nhất tề kéo lên xã, lên huyện, lên tỉnh cướp chính quyền.
           Ông An khi ấy cởi trần trùng trục, mặc độc chiếc quần đùi gụ đã bạc phếch. Loay hoay tìm vũ khí mãi, cuối cùng ông chạy xuống chuồng lợn vơ được chiếc câu liêm, dụng cụ để cắt cành cây và chòi quả cọ. Ông chạy vụt đi, hòa vào đoàn người cũng tay liềm, tay hái. Trên đường đi, người ta reo hò, đả đảo giặc Nhật, giặc Pháp và bè lũ địa chủ, cường hào... Trong đám reo hò đến khản cả giọng, ông An thấy có cả cô con gái, mà sau này nên nghĩa phu thê, gắn bó trọn đời với ông.
         Tại phố phủ, bọn sĩ quan Nhật mặc đồ ka ki màu cứt ngựa, đeo lủng lẳng khẩu súng ngắn trễ bên hông và tay lăm lăm thanh kiếm. Cứ nhìn cái mặt vênh vênh, cũng đủ biết bọn này rất gan lì, bặm trợn. Chỉ đến khi một vị cán bộ của ta giật cây câu liêm trên tay ông An múa tít một vòng. Cây câu liêm sáng loáng, có mỏ như mỏ đại bàng kia mà ngoắc vào cổ thì toi đời là cái chắc. Hình như hiểu được điều đó, hắn mới cùng đồng bọn chịu cởi thắt lưng, trao súng và kiếm cho Việt Minh.
         Chợt nhớ ra điều gì, ông An lập bập chạy vào buồng. Có tiếng lục cục, loảng xoảng. Bỗng ông gắt ầm lên:
            - Đứa nào lấy của ông, đem trả mau.
         Nghe thấy bố chồng kêu như thể có kẻ trộm, cô con dâu út hớt hải chạy xuống hỏi: Có chuyện gì thế ạ? Có chuyện gì – Ông An đai lại: Chiếc câu liêm ông để ở đây, chỗ này. Có đứa nào nghịch không? Trời. Chiếc câu liêm bằng sắt, nặng như thế, chứ có phải là ô tô, xe xúc bằng nhựa đâu mà cụ bảo các cháu nó nghịch. Nhưng lạ quá, lâu nay ông vẫn cất nó trên gác để làm kỉ niệm và ông luôn xem chiếc câu liêm ấy như một báu vật linh thiêng nhất trong đời. Nay không cánh mà bay, vô lí quá. Cô con dâu lại lục tìm một lần nữa, vẫn không thấy chiếc câu liêm của ông đâu. Quái lạ... Đến khi cô lật chiếc chiếu ở đầu giường của ông, cô sung sướng reo lên: Đây rồi. Cụ để thế này có giời mà tìm. Mà cục sắt rỉ bố còn giữ để làm gì?

           Ông An chộp lấy chiếc câu liêm từ tay con dâu, cứ như chỉ sợ nó bay mất. Biết mình có lỗi, ông xuýt xoa thanh minh: Tuổi già nó khổ thế đấy. Chả là lâu nay tôi hay bị “tinh đất” nó đè, nên lấy chiếc câu liêm để trên đầu giường cho dễ ngủ....Bỗng ông đăm đăm nhìn vào khoảng không, như hồi tưởng những gì...xa lắm. Chợt ông thủ thỉ: Chà, mới đấy mà đã bảy mươi ba năm. Một đời người chứ ngắn ngủi gì? Hồi ấy nếu không có Việt Minh. Không có búa liềm, dáo mác, tầm vông, và những cây câu liêm...thì cuộc đời của dân mình sẽ ra sao nhỉ? Tôi khẽ xoa hai tay vào nhau, cười, thưa: Vâng, những cây câu liêm đã đóng góp một phần để làm nên lịch sử cụ nhỉ? Ông An lại cười. Vẫn nụ cười đôn hậu thường thấy trên môi. Ngoài kia, mặt trời đã lên cao, tãi cái nắng mùa thu xuống mấy chậu cúc đại đóa để trước sân, khiến những bông cúc óng lên như được dát bằng vàng, sao mà đẹp thế.

                                                                               Xuân Quang
                                                              Thạch Sơn, Lâm Thao, Phú Thọ

Bế mạc Trại sáng tác kịch bản điện ảnh Việt Nam tại Nhà sáng tác Đà Lạt

Ngày 22/9/2018, đã bế mạc Trại sáng tác kịch bản điện ảnh Việt Nam tại Nhà sáng tác Đà Lạt.

Trại quy tụ các cây viết là những nhà biên kịch, đạo diễn cùng những người làm công tác giảng dạy, lý luận thuộc các lĩnh vực phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình và công trình nghiên cứu từ khắp các vùng miền trên cả nước. Có thể kể ra đây những cái tên tiêu biểu, thuộc thế hệ người làm phim gạo cội như: Lĩnh vực phim truyện có Đạo diễn - NSND Nguyễn Thanh Vân, NSND Nhuệ Giang. Hoạt hình có Đạo diễn - NSND Hà Bắc, nhà biên kịch Phạm Sông Đông, phim tài liệu là NSƯT Sỹ Chung, NSƯT Nguyễn Hữu Phần… Ngoài ra, trại Sáng tác kịch bản lần này còn có nhiều cây bút thuộc thế hệ 7x, 8x như: Biên kịch Thu Dung (Điện ảnh Quân Đội), Đặng Thu Trang, Nguyễn Thị Thu, Tống Thị Phương Dung (Hãng phim truyện Việt Nam) và nhiều gương mặt khác.

bemacdienanht9 2018

Hàng năm, Hội Điện ảnh Việt Nam đều tổ chức Trại sáng tác kịch bản và luôn thu được kết quả tốt với số kịch bản được chọn lựa, đầu tư nâng cao chất lượng và đưa vào làm phim ngày càng nhiều. Có thể nói, chính công tác tổ chức, tạo điều kiện tốt nhất về hậu cần như ăn, ở, đi thực tế cho Hội viên đồng thời là Trại viên của Hội Điện ảnh là một trong những yếu tố quan trọng để giúp các nghệ sỹ thăng hoa trong sáng tác. Nói như NSƯT Sỹ Chung, trong buổi bế mạc Trại tổ chức vào ngày 22/9, thì “Mười ngày dự trại tuy là khoảng thời gian không nhiều nhưng không gian thơ mộng của thành phố ngàn hoa, lịch sử, tiềm năng của thiên nhiên và con người Đà Lạt đã tiếp thêm năng lượng tạo thêm hưng phấn để các nghệ sỹ thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật”.

Cùng với việc dành thời gian hoàn chỉnh tác phẩm, các nghệ sỹ đã có chuyến đi thực tế tại nhiều địa danh, di tích lịch sử, văn hóa, cơ sở sản xuất, doanh nghiệp tiêu biểu của Đà Lạt. Những điểm đến khó quên này, cùng với vẻ đẹp duyên dáng nên thơ của thành phố cao nguyên chính là chất liệu để các nghệ sỹ bồi đắp, làm dày thêm cho những trang viết của mình đồng thời “hoài thai” những ý tưởng sáng tạo mới, tạo cơ sở tốt cho những tác phẩm điện ảnh có giá trị về nội dung và nghệ thuật cao, góp phần vào sự phát triển của điện ảnh nước nhà.

Trại sáng tác năm nay thu về 9 đề cương phim truyện, 6 đề cương phim tài liệu, 3 đề cương phim hoạt hình và 2 công trình nghiên cứu.

Nguồn: http://www.thegioidienanh.vn

Bế mạc Trại sáng tác kịch bản điện ảnh Việt Nam tại Nhà sáng tác Đà Lạt

Ngày 22/9/2018, đã bế mạc Trại sáng tác kịch bản điện ảnh Việt Nam tại Nhà sáng tác Đà Lạt.

Trại quy tụ các cây viết là những nhà biên kịch, đạo diễn cùng những người làm công tác giảng dạy, lý luận thuộc các lĩnh vực phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình và công trình nghiên cứu từ khắp các vùng miền trên cả nước. Có thể kể ra đây những cái tên tiêu biểu, thuộc thế hệ người làm phim gạo cội như: Lĩnh vực phim truyện có Đạo diễn - NSND Nguyễn Thanh Vân, NSND Nhuệ Giang. Hoạt hình có Đạo diễn - NSND Hà Bắc, nhà biên kịch Phạm Sông Đông, phim tài liệu là NSƯT Sỹ Chung, NSƯT Nguyễn Hữu Phần… Ngoài ra, trại Sáng tác kịch bản lần này còn có nhiều cây bút thuộc thế hệ 7x, 8x như: Biên kịch Thu Dung (Điện ảnh Quân Đội), Đặng Thu Trang, Nguyễn Thị Thu, Tống Thị Phương Dung (Hãng phim truyện Việt Nam) và nhiều gương mặt khác.

bemacdienanht9 2018

Hàng năm, Hội Điện ảnh Việt Nam đều tổ chức Trại sáng tác kịch bản và luôn thu được kết quả tốt với số kịch bản được chọn lựa, đầu tư nâng cao chất lượng và đưa vào làm phim ngày càng nhiều. Có thể nói, chính công tác tổ chức, tạo điều kiện tốt nhất về hậu cần như ăn, ở, đi thực tế cho Hội viên đồng thời là Trại viên của Hội Điện ảnh là một trong những yếu tố quan trọng để giúp các nghệ sỹ thăng hoa trong sáng tác. Nói như NSƯT Sỹ Chung, trong buổi bế mạc Trại tổ chức vào ngày 22/9, thì “Mười ngày dự trại tuy là khoảng thời gian không nhiều nhưng không gian thơ mộng của thành phố ngàn hoa, lịch sử, tiềm năng của thiên nhiên và con người Đà Lạt đã tiếp thêm năng lượng tạo thêm hưng phấn để các nghệ sỹ thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật”.

Cùng với việc dành thời gian hoàn chỉnh tác phẩm, các nghệ sỹ đã có chuyến đi thực tế tại nhiều địa danh, di tích lịch sử, văn hóa, cơ sở sản xuất, doanh nghiệp tiêu biểu của Đà Lạt. Những điểm đến khó quên này, cùng với vẻ đẹp duyên dáng nên thơ của thành phố cao nguyên chính là chất liệu để các nghệ sỹ bồi đắp, làm dày thêm cho những trang viết của mình đồng thời “hoài thai” những ý tưởng sáng tạo mới, tạo cơ sở tốt cho những tác phẩm điện ảnh có giá trị về nội dung và nghệ thuật cao, góp phần vào sự phát triển của điện ảnh nước nhà.

Trại sáng tác năm nay thu về 9 đề cương phim truyện, 6 đề cương phim tài liệu, 3 đề cương phim hoạt hình và 2 công trình nghiên cứu.

Nguồn: http://www.thegioidienanh.vn

Khai mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam tại Ðà Lạt

Ngày 19/9/2018, tại Nhà sáng tác Đà Lạt, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam đã tổ chức trại sáng tác văn học nghệ thuật 2018.

Với sự tham dự của 15 văn nghệ sĩ (gồm 12 nhà văn, nhà thơ, 3 nghệ sĩ nhiếp ảnh), trong đó nhiều tác giả là người dân tộc thiểu số đã sáng tạo nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: Y Phương, Hoàng Quảng Uyên, Lộc Bích Kiệm..., còn lại là các tác giả dành tâm huyết cho mảng đề tài miền núi và có nhiều tác phẩm viết về dân tộc thiểu số Việt Nam. 

khaimacdttst9 2018

Trại sáng tác nhằm tạo điều kiện cho các văn nghệ sĩ thâm nhập thực tế, trao đổi kinh nghiệm sáng tác giữa các vùng miền, tiếp cận thực tiễn sáng tạo mới cũng như bồi dưỡng các cây bút trẻ. Thời gian ở trại không nhiều, nhưng mảnh đất và con người Đà Lạt - Lâm Đồng, đặc biệt là đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc bản địa ở đây sẽ là nguồn cảm hứng để các văn nghệ sĩ sáng tạo nên nhiều tác phẩm chất lượng cao về cả nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu đạt.

Bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật Phú Thọ 2018 tại Nhà sáng tác Đà Nẵng

Ngày 19/9/2018, tại Nhà sáng tác Đà Nẵng đã bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật 2018 do Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ và Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật phối hợp tổ chức.

Tham dự buổi bế mạc có bà Nguyễn Thị Hồng Chính – Phó chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ, Tổng biên tập tạp chí Đất Tổ; bà Vũ Thị Kim Liên – Phó Tổng biên tập tạp chí Đất Tổ; ông Nguyễn Song Hiển – Giám đốc Nhà sáng tác Đà Nẵng cùng toàn thể các văn nghệ sỹ tham dự trại sáng tác.

Liên tiếp các năm gần đây tuy điều kiện kinh phí hoạt động có khó khăn song Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ vẫn giữ nền nếp tổ chức cho hội viên tham dự các trại sáng tác do Trung tâm hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật tổ chức thường niên. Các văn nghệ sỹ tham dự các trại sáng tác tại Đà Lạt, Đà Nẵng, Tam Đảo, Vũng Tàu, Nha Trang đều thu được những kết quả khả quan, cho ra đời những tác phẩm tốt, có chất lượng cao. Nhiều tác phẩm đã được phát hành trên các báo, tạp chí và được Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch khen thưởng.

bemacphuthot9 2018
Bà Vũ Thị Kim Liên trao tác phẩm sáng tác cho ông Nguyễn Song Hiển

Phát huy và nối tiếp tinh thần của các trại sáng tác trước, tại trại sáng tác lần này các văn nghệ sỹ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết gắn bó, chấp hành tốt nội quy, quy chế của trại sáng tác để thực hiện tốt nhiệm vụ của mỗi người, có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng cao. Qua các chuyến đi thực tế, giao lưu với các hội văn học nghệ thuật tại Đà Nẵng, các trại viên thu thập thêm được nhiều kinh nghiệm, góp phần làm phong phú thêm các chất liệu sáng tác trong từng tác phẩm.

Với 73 tác phẩm được sáng tác, trong đó bao gồm: 39 thơ, 03tác phẩm văn xuôi, 04 tác phẩm âm nhạc, 05 tác phẩm mỹ thuật, 14 tác phẩm nhiếp ảnh, 03 tác phẩm nghiên cứu lý luận phê bình và 05 tác phẩm văn hóa dân gian, trại sáng tác đã có thể được coi là thành công tốt đẹp. Những tác phẩm được đánh giá cao sẽ được chọn để in trong tạp chí Đất Tổ và các ấn phẩm văn học tại tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.

Bánh chưng đen ngày Tết - Tác giả Nguyễn Khắc Ân - Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn

Bánh chưng đen ngày Tết  -
Nét đẹp văn hóa người dân tộc Tày huyện Bắc Sơn Lạng Sơn

Nghiên cứu văn hoá dân gian của tác giả Nguyễn Khắc Ân – Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn, sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 8-2018

       Bắc Sơn là một huyện miền núi thuộc vùng Đông Bắc tỉnh Lạng Sơn, nơi đây là căn cứ địa của cuộc Cách mạng tháng 8 -1945. Cũng chính nơi đây có nhiều cảnh đẹp được thiên nhiên ban tặng như đỉnh núi Nà Lay; làng Quỳnh Sơn; đình Nông Lục; bảo tàng Bắc Sơn, hoa Tam giác mạch không chỉ Hà Giang mới có mà ngay Bắc Sơn hoa cũng lung linh, đua sắc…. Ngoài cảnh đẹp ra Bắc Sơn  còn có nhiều đặc sản  như: quýt, mác mật, bánh cóoc mò; bành giày, bánh ngải; xôi cẩm, cơm lam, bánh gio…

      Đặc biệt, bánh chưng đen của người dân tộc Tày huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn là một trong những món truyền thống được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Muốn gói được bánh chưng đen phải là người khéo tay, đảm đang, chịu khó. Do vậy, phong tục nơi đây khi chọn lấy nàng dâu, người dân  thường chú ý đến những cô gái biết gói những chiếc bánh tròn đẹp, những đường lạt gói phải đều đặn, tạo nên một chiếc bánh đẹp mắt và đậm đà hương vị quê hương.

       Sau khi thu hoạch vụ lúa mùa xong, người dân thường chọn những cọng rơm nếp  to, vàng đem về rửa sạch. Sau đó phơi khô rồi đốt thành tro, vò mịn, rây lấy phần mịn nhất của tro nếp… Chọn những giống lúa nếp thơm ngon nhất, như nếp cái hoa vàng, hạt to đều, trắng, thơm, không bị gãy. Gạo được chọn kỹ, sau khi ngâm nước, vo kỹ, vớt ra đem trộn với bột tro nếp sao cho hạt gạo được bao bọc bởi màu đen tro mịn là vừa đủ màu sắc và chất lượng.

      Thịt lợn chọn để gói bánh phải là lợn làng (1), với đỗ xanh, hành khô, mộc nhĩ, nấm hương, mỡ, hạt tiêu…. Lá dong được chọn để gói loại bánh này cũng phải chọn loại lá lụa, to, bánh tẻ và được các cô gái Tày vào rừng lấy về và rửa sạch từ đầu tháng 12 âm lịch. Bánh được gói thành hình trụ dài khoảng 25 – 30 cm, đường kính độ 6 – 8 cm, dùng lạt dài cuốn quanh theo chiều ngang bánh cho chặt, bên trên đầu bánh họ thường để đầu lạt chìa ra như cái tai để dễ bề vớt bánh cho đỡ nóng hoặc treo bánh lên sào cũng dễ dàng.

     Lạt dùng để buộc bánh chưng đen cũng được người dân vào rừng chọn cây nứa hay cây giang có dóng dài, bánh tẻ(2). Củi được người dân lên núi đá kiếm từ trước khi thu hoạch xong vụ mùa. Vì củi núi đá cháy đượm lửa hơn củi núi đất. Khi gói bánh xong xếp một lượt cuống lá dong xuống đáy nồi trước(3) sau đó mới xếp bánh vào. Bánh đun từ 12-15 tiếng là vừa đủ độ nhừ và rền thì bánh mới dẻo, ngon và để được lâu.

     Từ khâu chọn rơm, tro nếp, từ cách chọn nhân, gạo, lá, lạt buộc cũng như củi … một cách cẩn thận, kỹ lưỡng cộng với người gói cũng khéo léo nên  bánh chưng đen Bắc Sơn có hương vị thơm ngon rất đặc trưng và độc đáo. Ngày Tết, ăn miếng bánh chưng đen với miếng giò lụa, mùi gạo quyện với tro nếp mát, vừa dẻo, vừa ngọt làm người ăn như thưởng thức được cả hương vị đậm đà của quê hương. Ăn bánh chưng đen Bắc Sơn không bị nóng cổ, nóng bụng như bánh chưng thường vì tro nếp đã khử mùi chua, độ nóng của gạo nếp…

     Ai đã một lần đến Lạng Sơn vào dịp năm mới, ngoài  thưởng thức một số món đặc sản như thịt treo xào tỏi tươi và lá mác mật, lạp xườn….nên thưởng thức món bánh chưng đen Bắc Sơn để biết thêm hương vị đậm đà, đậm nét hương vị quê hương, dân tộc nơi đây. Đây cũng là nét đẹp văn hóa của người dân tộc Tày Bắc Sơn nói riêng và là nét văn hóa chung của người Việt Nam trong dịp Tết đến xuân về.

Chú thích:

(1): Lợn làng: là loại lợn ỉ được người dân địa phương nuôi từ 2-3 năm, lợn chỉ ăn ngô khoai, sắn (Không cho ăn cám tăng trọng).

(2) Bánh tẻ:  là cây nứa, cây giang dùng làm lạt, không già quá cũng không non quá thì lạt mới dẻo, dai và chắc.

(3) Khi gói bánh xong xếp một lượt cuống lá dong xuống đáy nồi trước: Cách làm này cho bánh khỏi cháy đồng thời  bánh có màu xanh, thơm của cuống lá dong rừng Bắc Sơn

Trại sáng tác âm nhạc “Huế xưa và nay”

Nhằm tìm ra những ca khúc mới có giá trị nghệ thuật cao, quảng bá hình ảnh quê hương và con người Thừa Thiên - Huế, Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật đã phối hợp với Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế tổ chức trại sáng tác âm nhạc “Huế xưa và nay”.

Tham dự buổi khai mạc vào ngày 8/9/2018 có các ông: Lê Trường Lưu, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thừa Thiên - Huế; Nguyễn Dung - Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh; Huỳnh Văn Ngàn - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sáng tác văn học nghệ thuật; PGS. TS Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

khaimacamnhachuet9 2018
Các nhạc sĩ chụp ảnh lưu niệm cùng các vị lãnh đạo

Trại sáng tác “Huế xưa và nay” có sự tham dự của nhiều nhạc sĩ là những tên tuổi lớn trên cả nước và một số văn nghệ sĩ tại địa phương như: PGS.TS Đỗ Hồng Quân, nhạc sĩ Vũ Duy Cương, nhạc sĩ Phú Quang, nhạc sĩ Lê Minh Sơn, nhạc sĩ Xuân Phương, nhạc sĩ Vũ Thiết, nhạc sĩ Đinh Công Thuận, nhạc sĩ Giáng Son, nhạc sĩ Võ Đăng Tín…

Trong khuôn khổ Trại sáng tác, các nhạc sĩ sẽ đi thâm nhập thực tế tại một số danh thắng như: di tích Huế, đầm phá Tam Giang, Vườn Quốc gia Bạch Mã, đầm Lập An, Lăng Cô và một số địa danh khác.

Có thể nói rằng, trại sáng tác âm nhạc “Huế xưa và nay” là một ngày hội lớn của các nghệ sĩ trong lĩnh vực âm nhạc, qua đó có thêm những ca khúc mới viết về Thừa Thiên Huế, mang đậm dấu ấn cuộc sống hiện đại bên cạnh những giá trị di sản truyền thống. Đồng thời hướng tới mục đích hoàn thiện ý tưởng xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành nơi hội tụ của những giá trị văn hóa âm nhạc Việt Nam.

Trại sáng tác sẽ diễn ra đến ngày 14/9.

Nguồn: Cinet.vn; baothuathienhue.vn

NHƯ LÁ BAY XA - Truyện ngắn của Lê Thuý Hạnh - Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn

NHƯ LÁ BAY XA

Tác giả : Lê Thuý Hạnh - Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn, sáng tác tại Nhà sáng tác Đà Nẵng tháng 8-2018.

            Sau buổi liên hoan tổng kết cuối năm học, cả hội đồng kéo nhau ra quán uống nước. Mai ngồi lặng lẽ ở góc bàn nhìn đồng nghiệp nói cười vui vẻ. Giờ này sang năm có lẽ cô không còn được chứng kiến những cảnh như thế này nữa rồi. Mai chợt thấy lòng bâng khuâng...

            Mai vốn là giáo viên dạy dạy môn Văn của một trường trong huyện. Từ nhà cô đến trường cũng phải hơn chục cây số. Từ ngày ra trường đến nay, sáng sáng cứ năm rưỡi là Mai lại lục đục chuẩn bị dắt xe ra cửa. Dạy ở xa, thiếu gì thì thiếu chứ đôi ủng và bộ quần áo mưa là không thể thiếu được. Bất kể nắng hay mưa, bộ quần áo mưa luôn phải mang trên người. Mưa thì không nói rồi, còn nắng mặc vào là để chống bụi mà. Con đường vào trường cô vẫn còn mấy cây số đường đất. Đất đỏ bụi mù mịt. Đi làm ngày nắng cũng khổ như ngày mưa. Dạo đầu mới đi dạy Mai đã từng bật khóc vì vất vả . Lương ba cọc ba đồng, tiền xăng xe, điện thoại cũng gần hết rồi còn đâu nữa. Nhưng nghĩ đến mẹ cô lại tự nhủ mình cần phải cố gắng lên.

            Mẹ Mai sinh ra ở một vùng quê nghèo khó. Ở vùng quê chó ăn đá, gà ăn sỏi này con gái mới lớn một chút bố mẹ đã lo gả chồng cho rồi. Mẹ Mai cũng không ngoại lệ. Năm mẹ Mai mười bảy tuổi, ông bà ngoại cô đã nhận trầu cau của một gia đình làng bên. Nghe đâu đó là gia đình một người bạn của ông ngoại. Mẹ Mai xin với ông ngoại cho thư thả vì mẹ Mai còn muốn đi học lấy một cái nghề. Ông ngoại cũng đồng ý. Rồi mẹ Mai cũng thi được vào khoa Tiểu học của trường CĐSP Tỉnh.

            Ngày mẹ nhập học cũng là ngày bố chồng tương lai lâm bệnh nặng. Thế là một đám cưới được tổ chức cấp tốc. Ba ngày sau khi cưới, bố chồng qua đời. Sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, mẹ Mai đội tang bố chồng đi học. Trải qua bao khó khăn cuối cùng mẹ Mai cũng trở thành cô giáo vùng cao. Mẹ dạy cách nhà hơn hai chục cây số. Hôm nào mẹ cũng dạy từ mờ sáng, lo bữa sáng cho bố con Mai xong là mẹ lại lọc cọc đạp xe đến trường. Vừa việc nhà, vừa việc trường vất vả thế mà Mai chưa thấy mẹ than phiền câu nào. Mẹ bảo mẹ yêu lũ trẻ và sẽ gắn bó với chúng đến hết đời.

            Năm Mai lên tám, mẹ cô bỗng đau ốm phải nghỉ làm suốt. Bố cũng nghỉ việc đồng áng đưa mẹ đi khám bệnh. Mai ở nhà với ông bà ngoại. Có lần Mai hỏi bà ngoại:
         - Mẹ cháu sao đi suốt thế? Mẹ cháu ốm nặng lắm à bà?
        Bà ngoại rơm rớm nước mắt, xoa đầu Mai, nghẹn ngào:
         - Mẹ cháu sắp khỏi rồi, khắp khỏi rồi...
         - Thế sao bà lại khóc ạ?
         - Đâu, có con gì vừa bay vào mắt bà đấy chứ.
         Rồi mẹ Mai cũng về nhà sau bao ngày đi viện liên miên. Có điều Mai thấy mẹ gầy hơn trước rất nhiều. Năm học mới đã bắt đầu mà mẹ không đi dạy được. Có lần Mai bắt gặp mẹ ngồi trước đống sách vở, nước mắt mẹ đầm đìa. Một nỗi lo lắng mơ hồ dâng lên trong lòng cô. Nhưng lúc ấy Mai còn nhỏ quá nên cô không hề hay biết cô sắp phải xa mẹ mãi mãi. Cuối năm ấy, mẹ Mai mất vì bệnh ung thư vú. Khi phát hiện ra, bệnh của mẹ đã ở giai đoạn cuối rồi. Trước lúc mất, mẹ dặn bố là kiểu gì sau này cũng phải cho Mai đi học đến nơi đến chốn. Mẹ bảo mẹ muốn Mai trở thành giáo viên đem con chữ đến cho bọn trẻ vùng cao. Mẹ bảo là mẹ tiếc vì mọi chuyện còn dang dở...

        Sau khi mẹ Mai mất, đêm nào thức giấc Mai cũng thấy bố ngồi ngoài hiên hút thuốc. Đốm lửa lập lòe, lập lòe trong đêm. Đốm lửa ấy in sâu trong tâm trí Mai đến tận bây giờ. Có lần Mai rón rén chui ra khỏi giường, đứng đằng sau bao nhiêu lâu mà bố Mai vẫn không biết. Mai thấy dưới chân bố bao nhiêu là mẩu thuốc. Rồi bố húng hắng ho..

        Một ngày đầu thu, bầu trời cao xanh vời vợi, gió thổi tung từng đám lá trám đen trước ngõ nhà Mai. Mấy chiếc lá tinh nghịch lượn lên lượn xuống mãi mới chịu đáp xuống đất. Mai chạy như bay qua mấy thửa ruộng. Bố đang lui cui làm cỏ mấy luống sắn xanh tốt. Lưng áo ông đẫm mồ hôi. Từ ngày mẹ Mai mất, bố cô ở vậy nuôi cô. Biết bao người làm mai làm mối nhưng bố chỉ lắc đầu. Rồi đêm đêm Mai vẫn thấy bố ra sân ngồi. Lâu lâu bố lại giở đống sách vở của mẹ ra đọc rồi ông vuốt vuốt, bọc lại cẩn thận vào túi bóng cất trong tủ rồi khóa lại. Lúc học cấp ba, Mai phải xa nhà học ở trường nội trú của huyện cách nhà mấy chục cây số. Cuối tuần bố lại bắt xe ra thăm Mai. Bố không cho Mai đi lại nhiều vì sợ cô vất vả. Lúc Mai học xong THPT bố Mai chỉ nói với Mai thế này:
               - Con thi trường nào cũng được. Miễn là con thấy thích hợp với mình. Nhưng con phải suy nghĩ cho kĩ vào nhé.
              Mai thấy mắt cay cay:
             - Con nghĩ kĩ rồi bố ạ. Con sẽ cố gắng thi vào trường sư phạm của Tỉnh. Vừa không phải đi xa quá, vừa là mong ước của mẹ con. Con muốn nối nghiệp của mẹ...
             Mai thấy mắt bố như bừng sáng lên. Nhưng ông cũng chỉ gật gật đầu mà không nói gì cả.
             Bỗng bố Mai dừng tay, thấy cô bên bờ ruộng. Ông ngạc nhiên:
            - Sao con lại ra đây làm gì? Đói quá ra gọi bố về ăn cơm sớm hả?
            Mai giơ tờ giấy ra, vừa chạy về phía bố, cô vừa hét lên:
            - Bố ơi! Con đỗ rồi. Giấy báo của trường Cao đẳng Sư Phạm này.
            - Thật hả? Đâu! Đâu! Đưa bố xem.
           Bố Mai quẳng luôn cái cuốc đang cầm ở tay, đón lấy tờ giấy trên tay cô. Nét mặt ông rạng rỡ mà nước mắt ông lại rưng rưng.

          Ngày Mai nhập học, bố đưa cô lên tận trường. May mà cô được một xuất trong kí túc xá. Bố ở lại dọn dẹp, sắm sửa đồ dùng cá nhân cho Mai đến chiều tối mới chịu bắt xe ra về.

          Ngày ra trường, với tấm bằng đỏ trong tay Mai được phân công về một trường ngay thị trấn. Dạy ở đó thì quá tốt rồi còn gì. Nhưng, còn lũ trẻ ở quê Mai thì sao? Còn ước mơ dang dở của mẹ...Mai đắn đo mãi. Cuối cùng Mai cũng tặc lưỡi. Giờ mình còn trẻ, có cơ hội thì cứ dạy ở thị trấn đã. Một vài năm nữa mình xin về dạy ở trường trong làng, trong xã cũng được.
            Khi Mai nói với bố quyết định ấy của mình, bố cô chỉ bảo tùy ở cô.
           Đêm ấy, đang ngủ thì có mùi hương quen thuộc len vào buồng đánh thức Mai dậy. Mùi thuốc lá của bố. Mai khe khẽ trở dậy, bố cô đang ngồi ngoài hiên nhà. Vẫn dáng ngồi bao năm qua Mai không thể quên. Bố nhìn về phía khu vườn trước nhà. Ánh trăng cuối tháng nhàn nhạt chiếu xuống cảnh vật. Những tán cây khẽ đu đưa trong gió. Tiếng côn trùng rỉ rả trong đêm. Âm thanh quá đỗi bình yên nhưng Mai lại thấy lòng mình như nổi sóng.
            Sáng hôm sau, Mai sửa soạn đồ để chuẩn bị đi nộp quyết định. Bố bắt con gà mái tơ trong chuồng làm mâm cơm thắp hương cho mẹ cô. Bữa cơm trưa chỉ có hai bố con. Bố gắp cho Mai chiếc còng bảo:
           - Con ăn đi, lấy sức để sau này còn làm việc nhé.
         Mai nghẹn ngào nuốt nước mắt vào trong:
          - Con đi dạy xa nhà, bố ở nhà nhớ giữ gìn sức khỏe đấy.
         - Ừ, con đừng lo cho bố. Cố gắng dạy cho tốt vào con nhé. Ngày trước mẹ con là giáo viên dạy giỏi đấy.
         Bố cô bỗng nghẹn lời, ông ngước nhìn lên tấm ảnh của vợ:
        - Mình ơi, tôi đã hoàn thành tâm nguyện của mình rồi đấy. Con Mai giờ đã trở thành cô giáo rồi mình ạ. Nhưng con đi dạy hơi xa nhà một chút. Mình nhớ phù hộ cho con nó mình nhé.
        Mai cầm tờ quyết định trên tay, run run gõ cửa phòng Tổ chức của Phòng giáo dục huyện. Sau khi nghe Mai trình bày, chú trưởng phòng tổ chức bắt tay cô:
        - Chú tôn trọng quyết định của cháu. Chú sẽ trình bày lên cấp trên để cấp trên xem xét nguyện vọng của cháu. Nhưng chú hỏi thật, cháu đã suy nghĩ kĩ chưa? Gia đình cháu có đồng ý không?
       - Cháu cảm ơn chú ạ! Cháu suy nghĩ kĩ lắm rồi. Gia đình cháu chắc chắn sẽ ủng hộ cháu thôi. Cháu mong chú tạo điều kiện giúp cháu với ạ.
        - Được rồi, cháu cứ về đi. Có gì chú sẽ thông báo cho cháu sau. Nhưng nói thật chú thấy tiếc cho cháu đấy. Nhưng dù sao chú cũng hoan nghênh tinh thần của cháu.
        Ánh mặt trời chiếu đỏ rực trên sườn đồi. Những đám mây chiều tím hồng lững lờ trôi trên bầu trời. Những cây sau sau mùa này lá đỏ rực làm nền cho những bụi hoa cúc quỳ vàng rực rỡ. Mấy cây trẩu ven đường kiêu hãnh vươn dáng lên cao. Con đường đất về nhà Mai lúc này mịn như một dải lụa. Mai phóng xe về nhà. Từ xa cô đã thấy chiếc xe đạp dính đầy đất của bố dựng bên hiên nhà. Mai thấy mắt mình cay cay và cô thấy quyết định của mình chiều nay là đúng đắn.

          Đến giờ Mai đã gắn bó với ngôi trường của quê hương hơn chục năm rồi. Thế nhưng sắp tới cô lại phải chia xa mái trường thân thương để nhận công việc mới. Mai được điều chuyển sang làm phó bí thư huyện ủy. Đồng nghiệp chúc mừng cô. Mai cũng chẳng biết mình nên vui hay nên buồn nữa. Chỉ có điều Mai biết chắc chắn rằng cho dù có làm gì đi chăng nữa cô sẽ vẫn luôn dõi theo những nụ cười ngây thơ và ánh mắt trong veo của lũ học trò nghèo ở quê.

         Bố Mai bảo cô hãy cứ mạnh dạn thử sức mình ở công việc mới đi. Ông bảo ông rất tự hào với những đóng góp nhỏ của Mai trong những năm tháng qua cho sự phát triển của ngành giáo dục quê nhà.

         Ánh nắng rọi xuống mặt bàn ấm áp như ánh mắt mẹ Mai ngày nào. Có lẽ ở thế giới bên kia mẹ Mai cũng rất vui khi biết cô có được những thành công như ngày hôm nay. Mai thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn. Cô mỉm cười dõi theo chiếc lá nhỏ được cơn gió đưa bay xa, bay xa...

                                                                                                  ( Đà Nẵng, 21/8/2018)

Subscribe to this RSS feed

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - TRUNG TÂM HỖ TRỢ SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUÂT
Địa chỉ : 1A Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại : 04 39.745.763
Bản quyền thuộc về Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác VHNT. Yêu cầu trích nguồn khi đăng tải nội dung từ trang web này